Ai là người tìm ra vaccine đầu tiên trong lịch sử? Từ khi nào?

09:15 03/01/2025

Quản Lý Y khoa vùng 2 - miền Bắc
Hệ thống tiêm chủng VNVC
Đã hơn 200 năm kể từ khi kỹ thuật đưa kháng nguyên của tác nhân gây bệnh vào cơ thể (hay còn gọi là vắc xin), nhằm chống lại căn bệnh đậu mùa đã hoành hành trong hơn 3.000 năm chính thức ra đời. Nhờ vào chương trình tiêm chủng toàn cầu được triển khai sau đó, bệnh đậu mùa đã chính thức bị xóa bỏ hoàn toàn. Vậy ai là người tìm ra vaccine đầu tiên này trong lịch sử loài người? Việc sáng chế ra vaccine khởi nguồn vào thời điểm nào? Cùng chuyên gia VNVC tìm hiểu chi tiết trong bài viết dưới đây. (1)
BS Đoàn Thị Khánh Châm, Quản Lý Y khoa vùng 2 - miền Bắc, Hệ thống tiêm chủng VNVC cho biết: “Vắc xin là phát minh vĩ đại của con người trong cuộc chiến với những căn bệnh truyền nhiễm, bắt đầu phải kể đến là bệnh đậu mùa. Nhờ có vắc xin, căn bệnh nguy hiểm với tỷ lệ tử vong lên đến 30% này đã được xóa bỏ vĩnh viễn. Vào năm 1958, Hội đồng Y tế Thế giới kêu gọi thực hiện tiêm chủng đậu mùa và đã giảm số ca mắc bệnh xuống 0 trường hợp, mà không để lại nguy cơ tái nhiễm. Những nỗ lực đã được tăng gấp đôi khi triển khai Chương trình thanh toán bệnh đậu mùa tăng cường vào năm 1967. Liên Xô đã cung cấp một loại vắc xin dạng đông khô, loại vắc xin này trở thành cơ sở để loại trừ bệnh đậu mùa ở Đông Âu, Trung Quốc và Ấn Độ.” |
Ai là người tìm ra vaccine đầu tiên?
Edward Jenner là người đầu tiên tìm ra vaccine đậu mùa vào năm 1796, thông qua việc tiêm chủng một loại virus tương tự, được lấy từ chất lỏng mủ đậu mùa bò từ tay cô gái vắt sữa và tiêm cho cậu bé James Phipps (8 tuổi). Mặc dù bị phản ứng tại chỗ và cảm thấy không khỏe trong nhiều ngày, nhưng Phipps đã hồi phục hoàn toàn. (2)
Hai tháng sau, vào tháng 7/1796, Jenner tiêm cho Phipps chất từ vết loét đậu mùa của con người để thử nghiệm khả năng kháng bệnh của Phipps. Phipps vẫn khỏe mạnh và trở thành người đầu tiên được tiêm vắc xin phòng bệnh đậu mùa. Thuật ngữ 'vắc xin' sau đó được đặt ra, bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là bò - vacca.
Được biết tới là người tạo ra vaccine đầu tiên - Edward Jenner sinh tại Berkeley, Gloucestershire vào ngày 17/5/1749. Ông là người con thứ 8 trong số 9 người con của mục sư Berkeley và Stephen Jenner và vợ ông là Sarah. Ở tuổi 14, ông đã được học nghề bác sĩ phẫu thuật trong 7 năm với ông Daniel Ludlow - một bác sĩ phẫu thuật tại Chipping Sodbury. Năm 1770, ông chuyển đến Bệnh viện St. George ở London để hoàn thành khóa đào tạo y khoa của mình dưới sự hướng dẫn của bác sĩ phẫu thuật và nhà thực nghiệm vĩ đại - John Hunter.
Năm 1772, ở tuổi 23, Edward Jenner trở về Berkeley và trở thành bác sĩ phẫu thuật, hành nghề tại quê hương. Mặc dù sau này ông đã thành lập các phòng khám ở London và Cheltenham nhưng Jenner vẫn chủ yếu là sinh sống và làm việc tại Berkeley trong suốt quãng đời còn lại.
Ngay từ những ngày đầu sự nghiệp, Edward Jenner đã bị hấp dẫn bởi truyền thuyết dân gian cho rằng những người bị đậu mùa bò sẽ không thể bị đậu mùa lần nữa. Cùng với kinh nghiệm về “Variolation (tiêm chủng)” khi còn là một cậu bé và những rủi ro đi kèm đã khiến ông thực hiện nghiên cứu quan trọng nhất đời mình. Thời gian đầu, lý thuyết của Edward Jenner không được đón nhận và vấp phải nhiều sự phản đối, chế giễu của giới y khoa vì thời đại khi ấy chưa hiểu rõ về bệnh truyền nhiễm.
Có thể nói, Edward Jenner đã dành phần lớn thời gian còn lại của cuộc đời mình để cung cấp các nghiên cứu về bệnh đậu mùa bò cho mọi người trên khắp thế giới và thảo luận về các vấn đề khoa học liên quan. Sau những cố gắng nỗ lực, kỹ thuật đưa “chất lạ” vào dưới da (ngày nay gọi là vắc xin) để tạo ra khả năng bảo vệ chống lại bệnh tật được biết đến rộng rãi và được công nhận. “Sự tiêm chủng của Jenner” đã nhanh chóng trở thành phương pháp chính để ngăn ngừa bệnh đậu mùa trên toàn thế giới, thậm chí trở thành bắt buộc tại nhiều quốc gia.

Để ghi nhận công trình của Jenner và đền bù cho thời gian ông phải rời xa công việc hành nghề y chung, Chính phủ Anh đã trao cho ông 10.000 bảng Anh vào năm 1802 và thêm 20.000 bảng Anh vào năm 1807. Các hội và trường đại học trên khắp thế giới đã trao cho Edward nhiều bằng cấp và trở thành hội viên danh dự. Để đáp lại những cống hiến quan trọng của ông, Napoleon đã trao tặng Edward Jenner huy chương đặc biệt vào năm 1804. (3)
Ngoài ra, ông còn nhận được món quà là chiếc nhẫn của Hoàng hậu Nga và một chuỗi hạt Wampum, đồng thời ông còn nhận được một chứng chỉ biết ơn gửi từ các Tù trưởng người da đỏ ở Bắc Mỹ. Các bức tượng vinh danh ông được dựng lên xa tận Tokyo và London.
Ngày 16/01/1823, Jenner trút hơi thở cuối cùng vì bệnh lý tai biến mạch máu não. Chính phủ Anh đã ngỏ lời xin chôn cất thi hài ông tại Tu viện Westminster - nơi an nghỉ những người con ưu tú của nước Anh và cả nhân loại. Tất cả mọi người đều gọi ông là "bác sĩ tài ba bất tử của nhân loại" và là "cha đẻ của vaccine", người đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho ngành y học dự phòng thế giới.
Nguồn gốc hình thành vaccine có từ khi nào?
Sau khi tìm hiểu về ai là người tìm ra vaccine đầu tiên, mời bạn tìm hiểu về nguồn gốc của vắc xin. Trước khi Edward Jenner tạo ra vaccine và được công nhận, triển khai rộng rãi cho đến ngày nay, thì cội nguồn của vaccine đã phải trải qua một quá trình nhận thức về miễn dịch lâu dài.
Lịch sử của vắc xin ghi nhận, từ thế kỷ 15, người dân ở nhiều nơi trên thế giới đã cố gắng ngăn ngừa bệnh tật bằng cách “cố ý” cho những người khỏe mạnh tiếp xúc với bệnh đậu mùa - một phương pháp được gọi là “variolation” (theo tên gọi của bệnh đậu mùa ‘la variole’). Nhiều nguồn tin ghi nhận rằng những phương pháp này đã diễn ra từ năm 200 trước công nguyên.
Vào năm 1796, Quý bà Mary Wortley Montagu đã mang vắc xin phòng bệnh đậu mùa đến châu Âu bằng cách yêu cầu hai cô con gái của bà được tiêm phòng bệnh đậu mùa theo cách bà đã quan sát ở Thổ Nhĩ Kỳ. Vào năm 1774, một nông dân Benjamin Jesty đã khám phá ra một giả thuyết rằng nhiễm trùng đậu bò có thể bảo vệ một người khỏi bệnh đậu mùa.
Vào tháng 5/1796, bác sĩ người Anh Edward Jenner đã mở rộng khám phá này và tiêm cho James Phipps, 8 tuổi, một chất được lấy từ vết loét đậu bò trên tay của một cô gái vắt sữa. Mặc dù ban đầu cậu bé có phản ứng tại chỗ và cảm thấy không khỏe trong nhiều ngày, nhưng Phipps đã hồi phục hoàn toàn. Hai tháng sau, Jenner tiếp tục tiêm cho Phipps chất từ vết loét đậu mùa của con người để thử nghiệm khả năng kháng bệnh của Phipps và cho thấy cậu bé vẫn khỏe mạnh. Sau đó, thuật ngữ “vaccine” đã được đặt ra, bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là bò - vacca.
Lịch sử vắc xin từ sơ khai đến hiện đại
Trong nhiều thế kỷ, con người đã tìm ra cách bảo vệ lẫn nhau khỏi những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm từ những thí nghiệm sơ khai mạo hiểm cho đến những cải tiến trong công nghệ hiện đại và triển khai rộng rãi ngày nay. Có thể nói vắc xin đã cứu sống nhiều người hơn bất kỳ phát minh y tế nào khác trong lịch sử. Cùng xem lại lịch sử vaccine từ sơ khai đến hiện tại như sau:
1. Thế kỷ 15 - Những phát hiện đầu tiên về hệ miễn dịch
- Thực hành "cấy đậu" ở phương Đông
Lịch sử ban đầu của vắc xin chủ yếu tập trung vào cuộc chiến chống lại bệnh đậu mùa - một căn bệnh tồn tại hàng ngàn năm, gây ảnh hưởng và tử vong ở 30% số trường hợp nhiễm bệnh. Trước khi phát triển vắc xin đậu mùa bò, việc tiêm chủng bằng phương pháp variolation “cấy đậu” rất phổ biến ở một số vùng ở phương đông như các nước Châu Á.
Nguồn gốc chính xác của phương pháp “cấy đậu” không được biết rõ. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng, biện pháp này bắt đầu ở đâu đó tại các quốc gia Châu Á, ở Trung Quốc hoặc Ấn Độ (có thể bắt nguồn từ hai nơi cùng một lúc). Ở Trung Quốc, vảy từ mụn mủ đậu mùa sẽ được phơi khô dưới ánh nắng mặt trời và sau đó được những người muốn phòng bệnh hít vào. Việc phơi khô vảy sẽ làm suy yếu và giảm khả năng lây bệnh của virus. (4)
Ở Ấn Độ cũng phát triển phương pháp tương tự và dần lan truyền về phía Tây đến Trung Đông, Bắc Phi và cuối cùng là Châu Âu. Phương pháp đó bao gồm việc chích mụn mủ của một người đang hồi phục sau bệnh đậu mùa và sau đó sử dụng chính mũi chích đó để truyền một số chất mủ vào cánh tay của một người khỏe mạnh.
- Mary Wortley Montagu đưa phương pháp cấy đậu đến phương Tây
Năm 1717, phu nhân Mary Wortley Montagu đã đến Đế chế Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) cùng với chồng và con trai bà. Khi nghe về lịch sử phương pháp “cấy đậu mùa” và thành công vượt trội của nó, phu nhân đã yêu cầu được quan sát quy trình này và viết về nó trong các lá thư của bà về chuyến đi. Bản thân bà đã từng mắc bệnh đậu mùa trước đó 2 năm trước và cũng mất anh trai vào khoảng thời đó.
Đây được cho là trải nghiệm tồi tệ và bà muốn tránh cho con trai khỏi căn bệnh nguy hiểm này, cuối cùng bà quyết định thực hiện phương pháp này lên con trai và đã có hiệu quả, đứa trẻ đã khỏi các triệu chứng nhẹ của bệnh và có miễn dịch.
Năm 1712, khi bệnh đậu mùa một lần nữa tấn công nước Anh, Phu nhân Mary đã cho con gái tiêm chủng theo phương pháp này. Sự kiện này đã được công khai rộng rãi và thu hút sự chú ý của công chúng. Phu nhân Mary đã thuyết phục Công nương xứ Wales tiêm chủng cho các con gái của bà vào năm 1722. Kể từ đó, việc dùng biện pháp “cấy đậu” đã được thực hiện ngày càng nhiều ở các nước châu Âu.

2. Năm 1796 - Edward Jenner khai sinh ra vắc xin đầu tiên
Bệnh đậu bò là một bệnh nhiễm trùng do virus nhẹ ở bò. Bệnh gây ra một vài đốm rỉ nước (mụn) trên bầu vú của con vật này, nhưng ít gây khó chịu. Những người vắt sữa thỉnh thoảng sẽ bị nhiễm bệnh đậu bò. Mặc dù họ cảm thấy hơi khó chịu trong vài ngày và phát triển một số ít mụn (thường là trên tay), nhưng hầu như căn bệnh này không không gây nguy hiểm.
Vào tháng 5/1796, một người làm nghề chăn nuôi bò sữa, Sarah Nelmes, đã tham khảo ý kiến của Jenner về một vết phát ban trên tay cô. Ông chẩn đoán là bệnh đậu mùa bò chứ không phải bệnh đậu mùa và Sarah xác nhận rằng một trong những con bò Gloucester tên là Blossom, gần đây đã bị đậu mùa bò. Edward Jenner nhận ra rằng đây là cơ hội để ông kiểm tra các đặc tính bảo vệ của bệnh đậu mùa bò bằng cách truyền bệnh cho một người chưa từng bị đậu mùa.
Ông đã chọn James Phipps - con trai 8 tuổi của người làm vườn. Vào ngày 14/5/1796, ông đã cào xước một vài cánh tay của James và chà xát vào đó một số vật liệu từ một trong những nốt mụn trên tay Sarah. Vài ngày sau, James bị bệnh đậu mùa bò nhẹ nhưng đã khỏe lại một tuần sau đó. Từ thử nghiệm này, Jenner biết rằng bệnh đậu mùa bò có thể lây từ người sang người cũng như từ bò sang người.
Bước tiếp theo, ông muốn kiểm tra xem bệnh đậu mùa bò có bảo vệ James khỏi bệnh đậu mùa hay không. Vào ngày 1/7/1796, Jenner đã tiêm vắc xin ngừa đậu mùa cho cậu bé. Và như Edward Jenner đã dự đoán, James đã không mắc bệnh đậu mùa, cả trong lần này lẫn nhiều lần sau khi khả năng miễn dịch của cậu bé được liên tục kiểm tra lại.
Edward Jenner đã tiếp tục thực hiện thí nghiệm này cùng nhiều thí nghiệm khác. Năm 1798, ông đã công bố toàn bộ nghiên cứu của mình về bệnh đậu mùa trong một cuốn sách có tựa đề “An Inquiry into the Causes and Effects of the Variolae Vaccinae (tạm dịch: Một cuộc điều tra về nguyên nhân và tác động của bệnh đậu mùa)”. Trong mỗi hai năm tiếp theo, ông đều đặn công bố kết quả của các thí nghiệm tiếp theo, xác nhận lý thuyết ban đầu của ông rằng bệnh đậu bò thực sự có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh đậu mùa.
Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng tình với Jenner và vắc xin mà ông đang nghiên cứu. Vào thời điểm đó, còn có tin đồn rằng nếu tiêm vắc xin này thì con người sẽ biến thành bò. Nhưng đến năm 1801, qua thử nghiệm rộng rãi, vắc xin đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh đậu mùa một cách hiệu quả.
Vắc xin phòng đậu mùa đã sớm được sử dụng ở các châu lục khác, nơi vắc xin tiếp tục được tiêm từ cánh tay này sang cánh tay khác, cho đến khi chương trình tiêm chủng được thiết lập tại các quốc gia. Việc tiêm vắc xin phòng bệnh đậu mùa bắt buộc có hiệu lực ở Anh và một số vùng của Hoa Kỳ vào những năm 1840 và 1850, cũng như ở các nơi khác trên thế giới, dẫn đến việc phải thiết lập giấy chứng nhận tiêm phòng bệnh đậu mùa cần thiết để đi du lịch.
3. Thế kỷ 19 - Sự phát triển vượt bậc của vắc xin
- Louis Pasteur với vắc xin tả, dại
Louis Pasteur sinh ngày 27/12/1822 tại Dole (Jura, Pháp), tốt nghiệp trường đại học danh giá nhất của Pháp là Ecole Normale Superieure ở Paris. Năm 1847, ông hoàn thành bằng Tiến sĩ Khoa học và bổ nhiệm làm giáo sư vật lý tại trường trung học Dijon vào năm 1848, sau đó chuyển đến Đại học Strasbourg làm giáo sư hóa học.
Vào năm 1872, mặc dù phải chịu đựng một cơn đột quỵ và cái chết của 2 người con gái, Louis Pasteur nỗ lực tạo ra loại vắc xin đầu tiên được sản xuất trong phòng thí nghiệm: vắc xin phòng bệnh tả ở gà. Pasteur đã làm việc cùng với trợ lý Chamberland để cố gắng tìm cách chữa bệnh tả gà, bằng việc tiêm vi khuẩn tả vào gà và nhận thấy vi khuẩn đã khiến con gà phát triển miễn dịch đối với bệnh tả. Điều này đã tạo cơ sở cho những phát minh quan trọng các loại vắc xin khác nhanh chóng hơn, cụ thể như vắc xin dại.
Vào năm 1885, Louis Pasteur cùng các cộng sự đã tiêm liều đầu tiên trong 14 liều của hỗn dịch tủy sống thỏ có chứa virus dại bất hoạt vào bệnh nhân Joseph Meister (9 tuổi), người đã bị một con chó dại cắn rất nghiệm trọng 2 ngày trước đó và bệnh nhân đã sống sót sau đó. (5)
- Anna Wessels Williams phát triển của vaccine bạch hầu
Vào năm 1894, Anna Wessels Williams - nhà miễn dịch học, đã phân lập thành công một chủng trực khuẩn bạch hầu có độc tính cao và ổn định bất thường. Đây là một trong những công trình góp phần phát triển loại thuốc kháng độc bạch hầu đầu tiên và sau đó là vắc xin bạch hầu. Nhờ khám phá của Anna Wessels Williams, bệnh bạch hầu đã có thể được loại trừ vào thời điểm đó. (6)

4. Thế kỷ 20 - Nhiều bệnh có vắc xin hơn
- Vắc xin cúm: Từ năm 1918 đến năm 1919, đại dịch cúm Tây Ban Nha đã giết chết khoảng 20 - 50 triệu người trên toàn thế giới, bao gồm 1 trong 67 binh lính Hoa Kỳ, khiến vắc xin cúm trở thành ưu tiên của quân đội Hoa Kỳ. Cùng với sự hỗ trợ của Quân đội Hoa Kỳ, vắc xin cúm bất hoạt đầu tiên được phát triển bởi Thomas Francis và Jonas Salk tại Đại học Michigan, đã được thử nghiệm trên quân đội Hoa Kỳ về độ an toàn và hiệu quả trước khi được cấp phép sử dụng rộng rãi vào năm 1945.
- Vắc xin bại liệt: Từ năm 1952 - 1955, vắc xin bại liệt hiệu quả đầu tiên đã được Jonas Salk phát triển và các thử nghiệm trên chính bản thân và gia đình. Sau đó là hàng loạt thử nghiệm với 1,3 triệu trẻ em diễn ra vào năm 1954. Đến năm 1960, một loại vắc xin bại liệt thứ hai do Albert Sabin phát triển đã được chấp thuận sử dụng. (7)
- Vắc xin viêm gan B: Năm 1969 - khoảng 4 năm sau khi Tiến sĩ Baruch Blumberg phát hiện ra virus viêm gan B, ông đã hợp tác với các nhà vi sinh vật học Irving Millman để phát triển vắc-xin viêm gan B đầu tiên bằng cách sử dụng dạng virus đã qua xử lý nhiệt.
- Vắc xin sởi - quai bị - rubella: Năm 1971, vắc xin phòng sởi (năm 1963) được kết hợp với các loại vắc xin phòng quai bị (năm 1967) và rubella (năm 1969) mới được phát triển thành một loại vắc xin duy nhất (MMR) bởi Tiến sĩ Maurice Hilleman.
- Vắc xin rota: Năm 1999, vắc xin đầu tiên chống lại tiêu chảy nghiêm trọng do rotavirus đã bị thu hồi chỉ sau một năm chấp thuận vì lo ngại các nguy cơ về đường ruột. Mãi cho đến năm 2019, vắc xin này mới được sử dụng ở hơn 100 quốc gia.
- Phát triển vắc xin HPV: Năm 1995, Anne Szarewski dẫn đầu một nhóm nghiên cứu về vai trò của virus papilloma ở người (HPV) trong việc phát hiện và sàng lọc ung thư cổ tử cung và các nhà nghiên cứu bắt đầu nghiên cứu vắc xin HPV. Năm 2006, vắc xin đầu tiên phòng ngừa HPV đã được phê duyệt, tiếp tục trở thành phần quan trọng trong nỗ lực loại trừ ung thư cổ tử cung.
5. Thế kỷ 21 - Kỷ nguyên công nghệ sinh học
- Công nghệ DNA tái tổ hợp
Trong thế kỷ trước, công nghệ DNA tái tổ hợp chỉ là nằm trong “tưởng tượng” vì những đặc điểm phải kiểm soát ngay trong gen của cơ thể, khác hẳn với phương pháp tiếp cận truyền thống. Tuy nhiên, trong thời đại tiên tiến và phát triển ngày nay, công nghệ sinh học bắt đầu có bước đột phá. Sự ra đời của công nghệ DNA tái tổ hợp đã cách mạng hóa sự phát triển trong sinh học, mang đến cơ hội mới để sản xuất nhiều loại dược phẩm có hiệu quả trong di truyền học bằng cách biến đổi các vi sinh vật, động thực vật,.. để tạo ra các chất hữu ích.
Vắc xin sử dụng công nghệ DNA tái tổ hợp được nghiên cứu dựa trên việc sử dụng nhiều phương pháp trong phòng thí nghiệm để đưa một đoạn DNA vào tế bào vi khuẩn hoặc nấm men. Lúc này, các vi khuẩn, nấm men sẽ sao chép DNA này, góp phần tạo nên các protein quan trọng để sử dụng trong việc phòng chống bệnh. (8)
⇒ Bạn có thể tìm hiểu sâu hơn về: Vắc xin tái tổ hợp là gì? Có những loại nào?
- Công nghệ mRNA
Công nghệ mRNA sử dụng phân tử RNA thông tin (mRNA) thay vì một phần của vi khuẩn hoặc virus thực sự. Các RNA thông tin này đóng vai trò cần thiết cho quá trình sản xuất protein. Khi các tế bào hoàn thành việc tạo ra protein, chúng sẽ nhanh chóng phân hủy mRNA để ngăn chặn các mRNA này xâm nhập vào nhân và thay đổi DNA. (9)
Giống như tất cả các loại vắc xin, vắc xin mRNA cần được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) cho phép và chấp thuận trước khi có thể sử dụng. Hiện tại, vắc xin phòng COVID-19, căn bệnh do virus Corona SARS-CoV-2 gây ra, là loại vắc xin mRNA duy nhất được cho phép hoặc chấp thuận. Các loại vắc xin này sử dụng mRNA để chỉ đạo các tế bào sản xuất các bản sao của một loại protein ở bên ngoài virus Corona được gọi là "protein gai". Các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu cách mRNA có thể được sử dụng để phát triển vắc xin cho các bệnh khác.

Việt Nam sử dụng vắc xin trong phòng chống bệnh từ khi nào?
Trong lịch sử dịch tễ học Việt Nam, không có ghi nhận chính xác thời điểm người Việt bắt đầu biết đến và sử dụng vắc xin từ khi nào. Trong các khảo cứu tư liệu lịch sử (kể cả tư liệu trong nước và ngoài nước) ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ 19 trở về trước, hầu như đều không nhắc đến các vấn đề của vắc xin và tiêm chủng.
Theo ghi nhận, việc đưa vắc xin vào sử dụng và thực hiện tiêm chủng rộng rãi tại nước ta xuất phát từ các bác sĩ phương Tây, chủ yếu là bác sĩ người Pháp. Cũng giống như các nước khác, giai đoạn từ thế kỷ 19 trở về trước, Việt Nam cũng phải đối mặt với căn bệnh đậu mùa hoành hành và số người tử vong được ghi nhận rất lớn.
Trong lịch sử ghi lại, con trai trưởng của vua Gia Long là Hoàng tử Cảnh đã mất vì bệnh đậu mùa khi chỉ mới 21 tuổi. Ngay cả vua Tự Đức thời niên thiếu cũng đã mắc bệnh đậu mùa và di chứng để lại là không thể có con nối dõi.
Nguồn tài liệu gần nhất cho biết vắc xin lần đầu được sử dụng ở Việt Nam là dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1840) và căn bệnh được chữa bệnh đầu tiên là bệnh đậu mùa. Vua Minh Mạng đã cử bác sĩ hải quân Jean Marie Despiau - một thành viên trong đội Ngự y của triều đình đến Ma Cao để tìm kiếm thuốc chữa bệnh đậu mùa cho người dân. Tuy nhiên, thời đó chưa có phương tiện bảo quản vắc xin nên cách duy nhất là dùng phương pháp truyền từ người sang người.
Vị bác sĩ hải quân này đã mang theo những đứa trẻ được cấy virus vào ta, đợt phát bệnh nổi đậu ngoài da và đen mủ cấy qua người khác, cứ liên tục như vậy cho đến khi về đến Huế. Vào năm 1821, Despiau đã thành công trong việc đưa “vắc xin” phòng đậu ngừa về chủng ngừa cho các con của vua Minh Mạng. Sau đó việc tiêm chủng đậu mùa được triển khai rộng rãi cho người dân địa phương.
Có thể thấy, mặc dù trên thế giới đã bắt đầu sử dụng vắc xin từ rất sớm, thậm chí từ thế kỳ 18 nhưng tại Việt Nam, đến nửa đầu thế kỳ 19 mới biết đến vắc xin.
Những vấn đề liên quan đến vắc xin
1. Tính an toàn của vaccine
Giống như tất cả các loại thuốc khác, tính an toàn của vắc xin phải được theo dõi liên tục, ngay cả sau khi thử nghiệm và đưa vắc xin vào sử dụng. Hầu hết các loại vắc xin tiêm chủng cho trẻ em đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ, với hàng triệu người được tiêm chủng đều an toàn phòng bệnh mỗi năm.
Khi một “ứng cử viên vắc xin” đầy hứa hẹn được xác định, trước tiên sẽ trải qua thử nghiệm trong phòng thí nghiệm kỹ lưỡng, bao gồm kiểm tra các thành phần bên trong vắc xin để đảm bảo tính an toàn và mức đồ ngăn ngừa bệnh tật. Nếu đạt được kết quả tích cực trong phòng thí nghiệm, nhà sản xuất sẽ nộp đơn xin thử nghiệm lâm sàng với hàng nghìn tình nguyện viên khỏe mạnh.
Các thử nghiệm phải tuân theo các quy định nghiêm ngặt và diễn ra trong ba giai đoạn chính:
- Trong Giai đoạn I: Thử nghiệm trên các nhóm nhỏ (ví dụ, khoảng 20-50 người) sẽ được tiêm vắc xin. Giai đoạn này sẽ đánh giá tính an toàn, tác dụng phụ, liều lượng phù hợp, phương pháp tiêm và thành phần của vắc xin;
- Nếu thành công, sẽ tiến tới Giai đoạn II. Ở giai đoạn này, vắc xin thường được tiêm cho vài trăm người. Nhóm này sẽ có cùng đặc điểm (ví dụ: tuổi, giới tính) với những người mà vắc xin dự định tiêm;
- Ở Giai đoạn III, vắc xin thường được tiêm cho hàng nghìn người để đảm bảo vắc xin an toàn và hiệu quả khi sử dụng rộng rãi hơn.
⇒ Bạn nên đọc thêm: Vaccine có an toàn không? Điều gì chứng minh nó không có hại?

2. Phong trào anti vắc xin
Mặc dù tiêm chủng vắc xin được xếp vào 1 trong 10 thành tựu hàng đầu của sức khỏe cộng đồng trong thế kỷ 20, nhưng ngay từ khi ra đời, vắc xin đã vướng phải sự phản đối tiêm chủng và sự chỉ trích với nhiều lập trường khác nhau, bao gồm: Trào lưu phản đối vắc xin đậu mùa ở Anh và Hoa Kỳ vào giữa - cuối những năm 1800; Tranh cãi xung quanh tính an toàn và hiệu quả của vắc xin bạch hầu, uốn ván, ho gà, sởi - quai bị - rubella và việc sử dụng chất bảo quản có chứa thủy ngân gọi là thimerosal.
Trào lưu phản đối lại vắc xin phòng đậu mùa của Edward Jenner nổi lên với lập luận về phương pháp dùng đậu bò là mất vệ sinh, cùng với các phản đối về mặt tôn giáo, khoa học và chính trị. Đỉnh điểm là “Đạo luật tiêm chủng năm 1867” ban hành đã mở rộng yêu cầu tiêm chủng và bổ sung hình phạt cho hành vi từ chối tiêm chủng. Đạo luật này đã gặp phải sự phản đối ngay lập tức từ những công dân đòi quyền kiểm soát cơ thể của bản thân và con cái của họ.
Cuộc diễu hành biểu tình Leicester năm 1885 là một trong những cuộc biểu tình phản đối vắc xin “khét tiếng” nhất. Tại đó, khoảng 80.000 - 100.000 người phản đối vắc xin đã dẫn đầu một cuộc diễu hành quy mô lớn, với đầy đủ biểu ngữ, quan tài của một đứa trẻ và hình nộm của Jenner.
Bên cạnh đó, tranh cãi về tình an toàn của vắc xin bạch hầu - uốn ván - ho gà (DPT) vào giữa năm 1970 đã nổ ra ở Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Bắc Mỹ. Tại Vương quốc Anh (UK), sự phản đối đã dẫn đến một báo cáo từ Bệnh viện nhi Great Ormond Street ở London, cáo buộc 36 trẻ em mắc các tình trạng thần kinh sau khi tiêm vắc xin DPT.
Để đối phó với tỷ lệ tiêm chủng giảm và ba đợt dịch ho gà lớn, Ủy ban chung về tiêm chủng và miễn dịch (JCVI) đã phải lên tiếng xác nhận về tính an toàn của vắc xin và khởi động nghiên cứu bệnh não ở trẻ em. Nghiên cứu này đã xác định mọi trẻ em từ 2 - 36 tháng tuổi nhập viện tại Vương Quốc Anh vì bệnh thần kinh do vắc xin là rất thấp.
Gần 25 năm sau cuộc tranh cãi về vắc xin DPT, Anh Quốc lại trở thành nơi diễn ra hoạt động phản đối tiêm chủng đối với vắc xin sởi - quai bị - rubella (MMR). Năm 1998, bác sĩ người Anh - Andrew Wakefield khuyến nghị điều tra thêm về mối quan hệ có thể có giữa bệnh đường ruột, chứng tự kỷ với vắc xin MMR. Vài năm sau, Wakefield cáo buộc vắc xin chưa được thử nghiệm đúng cách trước khi đưa vào sử dụng. Các phương tiện truyền thông đã nắm bắt những câu chuyện này, làm dấy lên nỗi sợ hãi và sự nhầm lẫn của công chúng về tính an toàn của vắc xin.
Thimerosal - một hợp chất chứa thủy ngân được sử dụng làm chất bảo quản trong vắc xin, cũng là trung tâm của cuộc tranh cãi về vắc xin và chứng tự kỷ. Mặc dù không có bằng chứng khoa học rõ ràng nào cho thấy một lượng nhỏ thimerosal trong vắc xin gây hại.
Năm 2001, Ủy ban Đánh giá An toàn Tiêm chủng của Viện Y học đã ban hành một báo cáo kết luận rằng không có đủ bằng chứng để chứng minh hoặc bác bỏ các tuyên bố rằng thimerosal trong vắc xin dành cho trẻ em gây ra chứng tự kỷ, rối loạn tăng cảm thiếu chú ý hoặc chậm nói hay các vấn đề về ngôn ngữ. Ngay cả với phát hiện này, một số nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục nghi ngờ về mối liên hệ có thể xảy ra giữa thimerosal và chứng tự kỷ.
Ngày nay, thimerosal không còn được sử dụng trong hầu hết các loại vắc xin dành cho trẻ em nữa, mặc dù một số dạng vắc xin cúm có trong lọ nhiều liều có thể chứa chất bảo quản này.
Mặc dù thời đại đã thay đổi, nhưng những niềm tin và quan niệm, dù là triết học - chính trị - tâm linh làm cơ sở cho sự phản đối vắc xin vẫn tương đối nhất quán kể từ khi Edward Jenner giới thiệu vắc xin đầu tiên.
Tương lai của vắc xin
Vắc xin đã trở thành “vũ khí” đắc lực trong cuộc chiến chống lại bệnh tật trong hơn 200 năm kể từ khi xóa sổ bệnh đậu mùa và loại trừ bại liệt ở hầu hết các quốc gia. Tiêm chủng cho trẻ em đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do bệnh truyền nhiễm ở nhiều nước phát triển. Tuy nhiên, tương lai vẫn tiếp tục đặt ra những thách thức lớn khi còn nhiều căn bệnh vẫn chưa tìm ra vắc xin hiệu quả như HIV/AIDS, sốt rét và bệnh leishmaniasis.
Trong khi đó, chi phí vắc xin quá cao khiến các quốc gia nghèo không đủ khả năng chi trả, bất chấp việc đây là những vắc xin rất quan trọng đối với sức khỏe. Trước sức ép đó, các nhà nghiên cứu vẫn phải tiếp tục nỗ lực phát triển ra các loại vắc xin hiệu quả với chi phí thấp hơn, để mang lại cơ hội phòng bệnh cho tất cả mọi người trên toàn thế giới.
Tương lai của việc tiêm chủng phụ thuộc vào sự thành công của nghiên cứu y khoa về các loại vắc xin dễ tiêm hơn, có thể vận chuyển mà không cần bảo quản lạnh và cung cấp phản ứng miễn dịch lâu dài hơn. Song song đó, sự thành công liên tục của vắc xin chống lại rất nhiều bệnh truyền nhiễm đã truyền cảm hứng cho các nhà khoa học sử dụng các phương pháp tương tự để chống lại các bệnh vẫn gây tử vong cho nhiều người, chẳng hạn như sốt rét, HIV/AIDS và các bệnh khác mà hiện vẫn chưa có vắc xin hiệu quả.
Tại Việt Nam, đã triển khai thành công chương trình tiêm chủng quốc gia miễn phí (tiêm chủng mở rộng - TCMR) cho trẻ em từ năm 1985, giúp phòng ngừa hiệu quả nhiều bệnh dịch nguy hiểm. Tuy nhiên, TCMR chỉ cung cấp khoảng 10 loại vắc xin cơ bản, trong khi nhu cầu về vắc xin cho cả trẻ em và người lớn còn rất lớn. Mặc dù nền kinh tế và đời sống của người dân đã phát triển, tốc độ phát triển của tiêm chủng dịch vụ vẫn chậm hơn so với nhu cầu thực tế.
Trước đây, việc tiêm chủng vắc xin dịch vụ gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung vắc xin, cơ sở vật chất và chất lượng dịch vụ. Các trung tâm tiêm chủng nhỏ lẻ, không được đầu tư, thiếu thiết bị và điều kiện vệ sinh, dẫn đến tình trạng thiếu vắc xin, đặc biệt là đối với trẻ em. Thị trường tiêm chủng dịch vụ chưa phát triển đồng bộ và chưa thu hút được các hãng dược phẩm lớn, khiến nhiều gia đình phải đưa con ra nước ngoài để tiêm hoặc phải chi trả chi phí cao cho vắc xin.
Nhận thấy những khó khăn này, Công ty cổ phần vắc xin Việt Nam (VNVC) đã được thành lập vào ngày 29/6/2017, mở ra hệ thống tiêm chủng hiện đại đầu tiên tại Hà Nội. Chỉ sau gần 8 năm (tính đến tháng 12/2024), VNVC đã phát triển hơn 210 trung tâm tiêm chủng trên toàn quốc, nỗ lực cung cấp dịch vụ tiêm chủng an toàn, chất lượng cao với giá thành hợp lý.
VNVC cũng đã nhập khẩu hàng chục loại vắc xin mới và thiết yếu, bao gồm hơn 30 triệu liều vắc xin Covid-19 của AstraZeneca, góp phần quan trọng vào cuộc chiến chống đại dịch. Những bước tiến này hứa hẹn sẽ nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của tiêm chủng và cải thiện sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam.
Hệ thống tiêm chủng VNVC là đơn vị có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực y tế dự phòng và tiêm chủng vắc xin. Đây cũng là đơn vị luôn tiên phong trong việc đưa vắc xin thế hệ mới, chất lượng cao về triển khai tiêm phòng kịp thời cho người dân Việt Nam, điển hình là nhập hàng triệu liều vắc xin trong đại dịch Covid- 19 hay nỗ lực nhập 4 loại vắc xin thế hệ mới trong năm 2024: Vắc xin phòng não mô cầu nhóm B, vắc xin Phế cầu 13, vắc xin Sốt xuất huyết, vắc xin Zona thần kinh.
Tự hào là một hệ thống chuyên nghiệp và lớn mạnh, VNVC sở hữu hệ thống dây chuyền lạnh (Cold Chain), hệ thống kho lạnh hiện đại, quy mô lớn, có khả năng bảo quản lên đến 400 triệu liều vắc xin trong cùng một thời điểm, cùng hệ thống xe lạnh vận chuyển, hệ thống tủ bảo quản chuyên dụng tại mỗi phòng tiêm, đảm bảo tất cả vắc xin đều được bảo quản trong nhiệt độ tiêu chuẩn từ 2 - 8 độ C, đạt chuẩn GSP theo tiêu chuẩn quốc tế.
Điều này cho thấy, VNVC luôn có đầy đủ vắc xin, sẵn sàng tiêm phòng cho người dân, đảm bảo tiêm đúng lịch, đúng phác đồ, không chậm trễ trong công tác phòng bệnh.
Ngoài chất lượng vắc xin, VNVC còn đặt an toàn của người tiêm lên hàng đầu, khi sở hữu đội ngũ nhân viên y tế: bác sĩ, điều dưỡng viên dày dặn kinh nghiệm, chuyên môn cao, tay nghề giỏi, 100% có chứng chỉ an toàn tiêm chủng theo quy định của Bộ Y tế.
Đội ngũ nhân viên y tế đều phải trải qua quá trình đào tạo và mô phỏng nghiêm ngặt các tình huống khẩn cấp theo định kỳ hàng tuần hoặc hàng tháng, để có thể linh hoạt xử lý đúng đắn trong những tình huống nguy cấp. Bên cạnh đó, VNVC luôn duy trì đường dây nóng hỗ trợ 24/7 cho người sau tiêm, tạo cho khách hàng sự an tâm khi biết rằng sức khỏe của họ luôn được theo sát và bảo vệ chặt chẽ.
Cơ sở hạ tầng tại hàng trung tâm tiêm chủng VNVC cũng được đầu tư mạnh mẽ, với không gian thoáng mát, rộng rãi, đảm bảo vệ sinh và khử trùng đều đặn. Đồng thời, VNVC cam kết trang bị đầy đủ phòng chức năng, phòng tiêm, phòng xử trí và các khu vực tiện ích khác như phòng cho bé bú, phòng thay tã/bỉm cho bé, phòng chờ,.. tạo sự thoải mái nhất có thể đến cho Khách hàng.
Ngoài ra, VNVC còn hợp tác với nhiều đơn vị tài chính lớn trên thế giới, triển khai nhiều giải pháp tài chính ưu việt, giúp cho người dân nhẹ gánh chi phí khi tiếp nhận tiêm chủng, như chính sách tiêm trước trả sau, trả góp 0% qua thẻ tín dụng, chi nhỏ thanh toán thành nhiều lần, cùng với hàng loạt chương trình ưu đãi mỗi tháng, quà tặng hấp dẫn vào mỗi dịp sinh nhật, dịp lễ tết, khai trương,... Đặc biệt, VNVC cam kết luôn bình ổn giá dù trên thị trường đang trong thời điểm khan hiếm, giá thành luôn minh bạch và niêm yết trên các phương tiện truyền thông.
Bài viết trên đã giải đáp được thắc mắc “Ai là người tìm ra vaccine đầu tiên trên thế giới”, Edward Jenner được công nhận là “cha đẻ” của vaccine với thành tựu nghiên cứu và tìm ra vaccine đậu mùa. Đây chính là nền tảng cho các cuộc nghiên cứu về vaccine từ quá khứ đến hiện tại, khi lần lượt nhiều căn bệnh đã có thể phòng ngừa hiệu quả bằng vắc xin lần lượt ra đời.



- Smallpox – the only infectious disease we’ve ever eradicated. (2024, September 10). World Economic Forum. https://www.weforum.org/stories/2020/04/how-smallpox-successfully-eradicated-covid/
- Immunize.org. (2024, November 5). Vaccine history timeline | Immunize.org. https://www.immunize.org/vaccines/vaccine-timeline/
- About Edward Jenner. (n.d.). Haiku. https://www.jenner.ac.uk/about/edward-jenner
- The history of variolation. (n.d.). History of Vaccines. https://historyofvaccines.org/blog/the-history-of-variolation
- Historical perspectives A centennial celebration: Pasteur and the modern era of immunization. (1985, July 5). https://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/00000572.htm
- Anna Wessels Williams: female pioneer of vaccine innovation. (n.d.). https://www.mpg.de/20064597/anna-wessels-williams
- A brief history of vaccination. (2024, December 30). https://www.who.int/news-room/spotlight/history-of-vaccination/a-brief-history-of-vaccination
- Recombinant DNA technology. (n.d.). Genome.gov. https://www.genome.gov/genetics-glossary/Recombinant-DNA-Technology
- What are mRNA vaccines and how do they work?: MedlinePlus Genetics. (n.d.). https://medlineplus.gov/genetics/understanding/therapy/mrnavaccines/