Bị HPV có mang thai được không? Có gây ra các biến chứng thai kỳ không?

HPV là virus gây u nhú ở người, là tác nhân gây ra nhiều bệnh lý sinh dục và ung thư nguy hiểm có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe sinh sản của nữ giới. Do đó, nhiều người băn khoăn liệu nhiễm HPV có ảnh hưởng đến quá trình mang thai hay không? Bị HPV có mang thai được không? Có gây ra các biến chứng thai kỳ không? Cần lưu ý gì? Trong bài viết này, chuyên gia đến từ Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC sẽ giải đáp chi tiết các thắc mắc trên.

BS.CKI Nguyễn Tiến Đạo, Quản lý Y khoa Vùng 4 - Hồ Chí Minh, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC: “Có khoảng 80% phụ nữ nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời và tỷ lệ nhiễm cao nhất trong độ tuổi 20 - 30 tuổi, hầu hết các trường hợp mắc HPV không có triệu chứng. Có đến 80% người nhiễm HPV là tạm thời, thoáng qua và có thể tự đào thải virus ra khỏi cơ thể mà không gây ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, các trường hợp khác có thể gây nhiễm trùng dai dẳng đến hàng chục năm, hình thành khối u ác tính, tiến triển ung thư, kéo theo nhiều hệ lụy đến sức khỏe, thậm chí tính mạng và cản trở hành trình mang thai và làm mẹ.”

bị hpv có mang thai được không

Bị HPV có mang thai được không?

Phụ nữ bị nhiễm HPV vẫn có thể mang thai và sinh con bình thường. HPV chủ yếu ảnh hưởng đến bề mặt của cổ tử cung và không gây tổn thương đến các cơ quan sinh sản như tử cung hoặc buồng trứng. Do đó, việc nhiễm HPV không ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thụ thai hoặc quá trình mang thai.

Tuy nhiên, nếu nhiễm HPV gây ra các biến chứng như loạn sản cổ tử cung hoặc ung thư, hoặc nếu cần điều trị, khả năng sinh sản có thể bị ảnh hưởng. Một số phương pháp điều trị có thể làm suy yếu cổ tử cung, dẫn đến tăng nguy cơ sinh non hoặc gặp các biến chứng trong thai kỳ. Vì vậy, cần theo dõi và điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ khi mang thai.

Chi tiết hơn, trước hết, cần hiểu rõ về bản chất của HPV. Có hơn 100 chủng HPV và chỉ một số ít trong đó được coi là có nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung. Việc nhiễm HPV không tự động khiến một người phụ nữ vô sinh; trên thực tế, nhiều người nhiễm HPV vẫn có thể mang thai mà không gặp phải biến chứng nào. Tuy nhiên, sự “giao thoa” giữa HPV và thai kỳ rất phức tạp và cần được xem xét kỹ lưỡng dưới góc độ sức khỏe tổng quát.

Khi xem xét vấn đề sinh sản, bản thân HPV thường không ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mang thai của người phụ nữ. Tuy nhiên, những biến chứng từ nhiễm HPV dai dẳng, như loạn sản cổ tử cung hoặc ung thư, có thể gây trở ngại cho khả năng sinh sản.

Theo thống kê, có khoảng 80% phụ nữ sẽ bị nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời, đặc biệt là nếu họ không được tiêm vắc xin HPV. Hầu hết mọi người sẽ không có bất kỳ triệu chứng nào khi bị nhiễm HPV. Hệ thống miễn dịch thường loại bỏ HPV khỏi cơ thể trong vòng 1 hoặc 2 năm mà không gây ra bất kỳ vấn đề sức khỏe nào khác. (1) (2)

Tuy nhiên, sự thay đổi hormone và điều tiết miễn dịch liên quan đến thai kỳ đôi khi có thể dẫn đến tăng mức độ nghiêm trọng của mụn cóc hoặc tổn thương ở một số phụ nữ, tuy nhiên điều này là hiếm và thường có thể được quản lý dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.

Bên cạnh đó, các phương pháp điều trị có thể làm cho việc thụ tinh và có thai trở nên khó khăn hơn. HPV có thể tạo ra các tế bào tiền ung thư ở cổ tử cung. Khi phát hiện ra các tế bào này, bác sĩ sẽ thực hiện các phương pháp cần thiết để loại bỏ mô bị ảnh hưởng.

Các phương pháp điều trị những bất thường cổ tử cung cấp độ cao, chẳng hạn như thủ thuật LEEP (Cắt bỏ vòng lặp điện) hoặc khoét chóp, có thể ảnh hưởng đến mô cổ tử cung và có thể tác động đến khả năng sinh con hoặc kết quả của thai kỳ. Những thủ thuật này có thể dẫn đến suy yếu cổ tử cung, tăng nguy cơ sinh non hoặc các biến chứng khác trong quá trình mang thai.

Các phương pháp như đốt nóng hoặc lạnh, có thể làm giảm sự tiết dịch nhầy ở cổ tử cung. Mặc dù dịch nhầy này có vai trò quan trọng trong việc giúp trứng gặp tinh trùng, nhưng việc điều trị HPV sẽ không gây tổn hại vĩnh viễn đến khả năng sinh sản của phụ nữ.

Bên cạnh đó, sau khi điều trị HPV, cổ tử cung có thể trở nên yếu hơn và tăng nguy cơ sinh non, vỡ ối sớm nếu mang thai. Ngoài ra, nhiễm HPV còn có thể liên quan đến các vấn đề nghiêm trọng khác trong thai kỳ như sảy thai tự nhiên, tiền sản giật, hạn chế tăng trưởng trong tử cung, và thậm chí tử vong thai.

người phụ nữ đang mang thai
Bị HPV có mang thai được không? Câu trả lời là CÓ! Phụ nữ nhiễm HPV vẫn có thể mang thai bình thường, tuy nhiên, có sự liên quan đáng kể giữa nhiễm HPV và các biến chứng thai kỳ bất lợi.

Nhiễm HPV có làm sảy thai, sinh non hay biến chứng thai kỳ nào không?

Nhiễm trùng HPV dai dẳng có thể gây tác động xấu đến thai kỳ. Nghiên cứu cho thấy khi mắc phải bất kỳ bệnh nhiễm trùng nào, bao gồm cả HPV nhóm nguy cơ cao, đều có thể khiến phụ nữ khó thụ thai, mang thai hơn. HPV có thể làm giảm khả năng tự làm tổ của phôi thai vào thành tử cung hoặc tử cung. Nhiễm HPV cũng có thể làm hỏng phôi và dễ bị sảy thai. Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa HPV với nguy cơ sẩy thai và sinh non tự phát, nhưng phụ thuộc vào loại HPV của người mắc.

Khi phụ nữ mang thai bị nhiễm HPV, hệ miễn dịch suy giảm, môi trường âm đạo dễ bị virus, vi khuẩn tấn công và gây bệnh. Hơn nữa, nhiễm trùng vi sinh vật trong ống sinh sản có thể liên quan đến vỡ màng tử cung sớm. Một số học giả phát hiện ra rằng, nhiễm HPV có tác động lớn đến kết quả thai kỳ, chẳng hạn như sinh non, vỡ màng ối non, xuất huyết sau sinh, nhiễm trùng hậu sản và hạn chế tăng trưởng của thai nhi. (3)

Bé khi sinh ra đời có bị nhiễm HPV từ mẹ không?

Việc truyền HPV từ mẹ sang con cũng là một yếu tố cần lưu ý. Mặc dù truyền virus sang nhau thai và thai nhi có thể xảy ra về mặt lý thuyết, nhưng điều này được xem là hiếm gặp trong thực tế. Nếu mẹ bầu nhiễm HPV, quá trình mang thai và sinh nở có thể tăng khả năng lây bệnh cho em bé. Việc trẻ sơ sinh nhiễm HPV không quá nguy hiểm do cơ thể trẻ có khả năng tự thải virus sau một thời gian.

Tuy nhiên, một số ít trường hợp phát triển mụn cóc ở cổ họng hoặc đa bướu gai đường hô hấp (hay còn gọi là u nhú thanh quản), ảnh hưởng đến đường thở, chủ yếu do tuýp 6 và 11 gây ra. Với trường hợp này, cần phải phẫu thuật laser thường xuyên để ngăn ngừa mụn cóc cản trở đường thở của bé.

Ngoài lây nhiễm trong quá trình sinh nở, trẻ sơ sinh cũng có khả năng tiếp xúc gián tiếp với HPV thông qua nhiều cách khác nhau, ví dụ DNA của HPV được truyền cho em bé khi người chăm sóc nhiễm và tắm, thay tã cho trẻ. HPV còn có thể lây qua các vật dụng có chứa chất dịch của người bệnh như khăn tắm, quần áo, dụng cụ vệ sinh cá nhân. Đây cũng là nguyên nhân khiến trẻ nhiễm HPV trước khi đủ tuổi quan hệ tình dục.

⇒ Bạn nên tìm hiểu thêm: Bị HPV có sinh thường được không? Bé có bị lây virus từ mẹ không?

em bé sơ sinh
Mẹ bầu nhiễm HPV trong quá trình mang thai và sinh nở có thể lây bệnh cho em bé , trong một số trường hợp rất hiếm gặp, trẻ có thể phát triển tình trạng gọi là u nhú đường hô hấp tái phát nếu nhiễm HPV qua đường sinh.

Nam giới bị nhiễm HPV có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản không?

Bên cạnh thắc mắc nhiễm HPV có mang thai được không, cũng có nhiều người quan tâm đến việc nam giới bị nhiễm HPV có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản không? Theo một nghiên cứu cho thấy nam giới nhiễm HPV gặp vấn đề về khả năng sinh sản cao gấp 3 - 4 lần nữ giới. Nguyên nhân là do sự hiện diện của HPV trong tinh trùng ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình mang thai, cản trở khả năng di chuyển tự do của tế bào tinh trùng, làm tăng nguy cơ vô sinh.

Một nghiên cứu năm 2011 cho thấy, nam giới có tinh dịch chứa HPV có thể bị vô sinh. Nếu tinh trùng chứa HPV thụ tinh với trứng có thể gia tăng nguy cơ sảy thai sớm. Một nghiên cứu năm 2014 cũng cho thấy, tinh trùng chứa HPV có thể góp phần gây vô sinh ở nam giới. Ngoài ra, một nghiên cứu khác vào năm 2015 cũng đã kết luận, HPV có tác động tiêu cực đến khả năng vận động của tinh trùng. Tuy nhiên, giới y khoa vẫn cho rằng, cần nghiên cứu thêm về tác động của HPV ở nam giới để khẳng định mối liên quan này.

Phòng ngừa và điều trị HPV

1. Cách phòng ngừa HPV

Nhiễm HPV nguy cơ cao nếu không được can thiệp và điều trị sớm có thể dẫn đến nhiều bệnh lý nguy hiểm. Do đó, mỗi cá nhân cần có ý thức chủ động phòng bệnh từ sớm để bảo vệ sức khỏe bản thân. Một số cách phòng ngừa HPV như sau:

Tiêm vắc xin HPV

Tiêm vắc xin HPV là biện pháp phòng ngừa hiệu quả và đơn giản nhất để bảo vệ sức khỏe và tính mạng của trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn trước nguy cơ lây nhiễm HPV, chặn đứng các nguy cơ bệnh tật nghiêm trọng do HPV gây ra. Đồng thời, tiêm vắc xin cũng là giải pháp nhằm tăng miễn dịch cộng đồng, làm giảm tỷ lệ HPV lưu hành trong cộng đồng.

Hiện nay, tại Việt Nam đang được cấp phép lưu hành 2 loại vắc xin HPV với hiệu quả cao đến trên 90%, bao gồm: vắc xin Gardasil (Mỹ) và vắc xin Gardasil 9 (Mỹ).

Vắc xin Gardasil (Mỹ) phòng bệnh ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo, các tổn thương tiền ung thư và loạn sản, mụn cóc sinh dục, các bệnh lý do nhiễm 4 tuýp HPV (6, 11, 16 và 18), được chỉ định dành cho trẻ em gái và phụ nữ trong độ tuổi từ 9 - 26 tuổi. Lịch tiêm Gardasil:

Bé gái từ tròn 9 tuổi đến 14 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên:

Phác đồ 2 mũi:

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 từ 6-12 tháng.

Phác đồ 3 mũi (0-2-6):

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 2 tháng
  • Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 4 tháng

Phác đồ tiêm nhanh:

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 1 tháng
  • Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 3 tháng

Bé gái từ 14 tuổi và phụ nữ đến 26 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên:

Phác đồ 3 mũi (0-2-6):

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 2 tháng
  • Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 4 tháng.

Phác đồ tiêm nhanh:

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 1 tháng
  • Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 3 tháng

Vắc xin thế hệ mới Gardasil 9 được xem là vắc xin bình đẳng giới vì mở rộng cả đối tượng và phạm vi phòng bệnh rộng hơn ở nam và nữ giới từ 9 - 45 tuổi, bảo vệ khỏi 9 tuýp HPV phổ biến, bao gồm 6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52 và 58 gây bệnh ung thư cổ tử cung, ung thư âm hộ, ung thư âm đạo, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, mụn cóc sinh dục, các tổn thương tiền ung thư hoặc loạn sản… Lịch tiêm vắc xin Gardasil 9 như sau:

Người từ tròn 9 tuổi đến dưới 15 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên:

Phác đồ 2 mũi:

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 từ 6-12 tháng.
  • Nếu mũi 2 tiêm cách mũi 1 < 5 tháng, cần tiêm mũi 3 cách mũi 2 ít nhất 3 tháng.

Phác đồ 3 mũi (0 - 2 - 6):

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 2 tháng
  • Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 4 tháng

Người từ tròn 15 tuổi đến 45 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên:

Phác đồ 3 mũi (0 - 2 - 6):

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 2 tháng
  • Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 4 tháng.
người đàn ông tiêm vắc xin hpv
Khách hàng tiêm vắc xin HPV tại VNVC.

Tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ

Tầm soát ung thư cổ tử cung là phương pháp sàng lọc, phát hiện các tế bào bất thường, tiền ung thư ở khu vực cổ tử cung của phụ nữ. Phương pháp này giúp phát hiện ung thư từ giai đoạn khởi phát, giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ điều trị thành công, ngăn ung thư tiến triển, di căn tới các khu vực lân cận.

Nên tầm soát sớm ung thư cổ tử cung ở độ tuổi 21 - 29. Lực lượng đặc nhiệm các dịch vụ phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (USPSTF) khuyến nghị sử dụng phương pháp xét nghiệm Pap đầu tiên ở tuổi 21, sau đó xét nghiệm lại sau mỗi 3 năm. Từ 30 – 65 tuổi, nên khám tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ 3 - 5 năm/ lần bằng các phương pháp như xét nghiệm HPV, xét nghiệm PAP, kiểm tra HPV kết hợp với làm Pap 5.

Tình dục lành mạnh và an toàn

Để đảm bảo an toàn, tránh lây nhiễm HPV, nên sử dụng bao cao su khi quan hệ, không quan hệ tình dục với nhiều bạn tình hoặc với người có những triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh do HPV hoặc người không rõ tiền sử và tình trạng bệnh lý. Sử dụng bao cao su ngay cả khi quan hệ qua đường hậu môn.

Trường hợp quan hệ tình dục qua đường miệng, sử dụng miếng chắn nha khoa bảo vệ. Sau quan hệ, nhiều chuyên gia khuyến cáo thực hiện tiểu tiện ngày thúc đẩy quá trình loại thải virus qua đường tiểu, giảm thiểu nguy cơ khu trú của virus sau quan hệ. Ngoài ra, không dùng chung đồ lót, khăn tắm với người khác.

2. Cách điều trị HPV

Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu HPV. Do đó, quá trình điều trị sẽ được thực hiện nhằm kiểm soát và loại bỏ những tác nhân gây hại. Một số phương pháp điều trị như sau:

  • Đối với người bệnh mắc sùi mào gà: Sử dụng các thủ thuật loại bỏ các tổn thương do HPV gây ra, kết hợp với dùng thuốc.
  • Đối với người bệnh bị mụn cóc sinh dục: Có thể phẫu thuật lạnh để làm đông lạnh mụn cóc; đốt mụn cóc bằng dòng điện; sử dụng ánh sáng laser cường độ cao để tiêu diệt mụn cóc; bôi kem thuốc trực tiếp lên mụn cóc...
  • Trong trường hợp HPV nguy cơ cao xâm nhập vào cơ thể sẽ có khả năng hình thành tế bào ung thư thì quá trình điều trị cần được tiến hành một cách khoa học, phù hợp để có thể đạt hiệu quả tốt nhất. Tùy thuộc vào kích thước khối u, mức độ lây lan sang vùng lân cận, tình trạng sức khỏe, bác sĩ điều trị sẽ lựa chọn một số phương pháp như: hóa trị, xạ trị, phẫu thuật…
đốt mụn cóc bằng dòng điện
Đối với người bệnh bị mụn cóc, có thể điều trị bằng cách đốt mụn cóc bằng dòng điện.

Tìm hiểu thêm về khả năng mang thai của tiền ung thư hoặc ung thư cổ tử cung

Bị HPV có mang thai được không? Nhiễm HPV vẫn có thể mang thai được. Vậy bị tiền ung thư hoặc ung thư cổ tử cung có mang thai được không? Đối với người bệnh ung thư cổ tử cung, thì khả năng mang thai, sinh con còn phụ thuộc vào việc bệnh được phát hiện ở giai đoạn sớm hay muộn và phương pháp điều trị ung thư có bị cắt bỏ cổ tử cung hay không, cụ thể:

Nghiên cứu và điều trị ung thư cổ tử cung đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng việc bảo tồn khả năng mang thai là thách thức lớn đối với cả bệnh nhân và bác sĩ. Do đó, việc phát hiện sớm, theo dõi và điều trị kịp thời là cực kỳ quan trọng để tăng cơ hội mang thai và bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ.

Các quyết định điều trị cần được cá nhân hóa, xem xét kỹ lưỡng lợi ích và rủi ro để tối ưu hóa sức khỏe sinh sản và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Tư vấn di truyền và hỗ trợ tâm lý cũng là những yếu tố quan trọng giúp bệnh nhân vượt qua những thách thức này.

1. Dị sản và ung thư tại chỗ

Dị sản cổ tử cung được coi là giai đoạn đầu của tiền ung thư, trong đó các tế bào trên bề mặt cổ tử cung có sự thay đổi bất thường. Các dạng dị sản có thể là nhẹ, trung bình hoặc nặng, thường được phát hiện qua các xét nghiệm Pap smear. Ung thư tại chỗ là một giai đoạn tiếp theo trong đó các tế bào bất thường chỉ tồn tại ở lớp bề mặt của cổ tử cung và chưa xâm nhập vào các mô sâu hơn.

Nếu bệnh được phát hiện ở giai đoạn sớm, người bệnh có thể áp dụng phương pháp điều trị đốt điện/ đốt bằng laser hoặc đông lạnh các tế bào bất thường, đôi khi tiến hành phẫu thuật khoét chóp cổ tử cung (hay sinh thiết nón). Đây là các phương pháp điều trị dễ dàng, tỉ lệ khỏi đạt 100%.

Đối với phụ nữ trong giai đoạn dị sản hoặc ung thư tại chỗ, khả năng mang thai thường không bị ảnh hưởng trực tiếp, vì các liệu pháp điều trị như cắt bỏ tế bào bất thường (thủ thuật LEEP hoặc cắt lạnh) thường không tác động trực tiếp và đáng kể đến khả năng sinh sản. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc điều trị phải được thực hiện thận trọng và theo dõi sát sao, đặc biệt khi người phụ nữ đang có kế hoạch sinh con. Tư vấn y khoa kỹ lưỡng giữa bác sĩ và bệnh nhân là cần thiết để đảm bảo sức khỏe tối ưu cho cả thai phụ và thai nhi.

Trong một số trường hợp, phẫu thuật cắt tử cung được tiến hành khi có kèm theo các triệu chứng bệnh lý khác thì bệnh nhân sẽ không còn khả năng sinh con được nữa.

2. Ung thư thể xâm lấn

Khi ung thư cổ tử cung tiến triển đến giai đoạn xâm lấn, các tế bào ung thư đã vượt ra ngoài lớp bề mặt và lan sâu hơn vào các mô của cổ tử cung. Ở giai đoạn này, khả năng mang thai có thể bị ảnh hưởng đáng kể, tùy thuộc vào phạm vi của tế bào ung thư và phương pháp điều trị được áp dụng.

Trường hợp ung thư cổ tử cung tiến triển, di căn đến nhiều cơ quan khác, người bệnh cần điều trị rộng hơn, bằng cách phẫu thuật cắt bỏ tử cung và các tổ chức xung quanh, gồm cả nạo vét hạch trong khung chậu, đôi khi tiến hành xạ trị phối hợp với phẫu thuật hoặc xạ trị đơn thuần, trong một số trường hợp cần thiết điều trị bằng hoá trị. Xạ trị vùng chậu có thể gây tổn thương cho buồng trứng và tử cung, trong khi hóa trị có thể ảnh hưởng đến chất lượng trứng.

Cắt bỏ cổ tử cung hoặc tử cung là những phương pháp phổ biến ở giai đoạn xâm lấn, điều này đương nhiên loại bỏ khả năng mang thai tự nhiên. Trong một số trường hợp ung thư cổ tử cung xâm lấn giai đoạn sớm, có thể áp dụng kỹ thuật cắt tử cung và phần trên âm đạo bị tổn thương, trong khi vẫn giữ lại đáy tử cung giúp bảo tồn khả năng sinh sản của phụ nữ. Sau khi điều trị, phụ nữ vẫn có thể mang thai và sinh con bằng phương pháp mổ lấy thai.

bác sĩ và mô hình cổ tử cung
Nếu ung thư cổ tử cung xâm lấn giai đoạn sớm, có thể áp dụng kỹ thuật cắt tử cung và phần trên âm đạo bị tổn thương nhưng vẫn giữ lại đáy tử cung giúp bảo tồn khả năng sinh sản của phụ nữ.

Bài viết trên vừa giải đáp thắc mắc “Bị HPV có mang thai được không? Có gây ra các biến chứng thai kỳ không?”. Có thể thấy, nhiễm HPV có thể gây cản trở khả năng sinh sản ở cả nam và nữ, đồng thời ảnh hưởng xấu đến quá trình mang thai của nữ giới. Tiêm vắc xin HPV không chỉ giúp bảo vệ bản thân khỏi các loại tuýp HPV nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung mà còn góp phần ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác. Cả nam và nữ giới từ 9 - 45 tuổi nên tiêm phòng HPV để đảm bảo sức khỏe sinh sản tốt nhất.

Chủ đề: #hpv
04:19 25/07/2025
Share Facebook Share Twitter Share Pinterest
Nguồn tham khảo
  1. What to know about HPV vaccination. (n.d.). UNICEF Europe and Central Asia. https://www.unicef.org/eca/stories/what-know-about-hpv-vaccination
  2. World Health Organization: WHO & World Health Organization: WHO. (2024, March 5). Human papillomavirus and cancer. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/human-papilloma-virus-and-cancer
  3. Wu, D., Chen, L., Zhen, J., & Jin, X. (2021). Systematic review and meta-analysis on influence of human papillomavirus infection during pregnancy on premature rupture of membranes and premature delivery. Annals of Palliative Medicine, 10(10), 10735–10743. https://doi.org/10.21037/apm-21-2497

BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ