Bị HPV có sinh thường được không? Bé có bị lây virus từ mẹ không?

HPV trong thai kỳ được báo cáo có khả năng mang lại kết quả bất lợi cho thai kỳ, bao gồm sinh non, sảy thai, rối loạn tăng huyết áp, trẻ hạn chế tăng trưởng trong tử cung, nhẹ cân khi sinh, vỡ ối non và thai chết lưu. Điều này khiến nhiều mẹ bầu lo lắng về vấn đề “bị HPV có sinh thường được không?” do có khoảng 40 chủng HPV lây nhiễm qua đường sinh dục, liệu bé có bị lây virus từ mẹ không? (1)

BS Phan Nguyễn Trường Giang - Quản lý Y khoa vùng 3 Mekong, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho biết: “Trong khi hầu hết các trường hợp nhiễm trùng HPV ở phụ nữ mang thai thường được phát hiện ở cổ tử cung, DNA HPV cũng được phát hiện tồn tại trong nhau thai, dịch ối và dây rốn. Sự hiện diện này ngụ ý cho thấy HPV trong thai kỳ có thể lây truyền theo chiều dọc ở thai nhi. Bằng chứng về việc lây truyền theo chiều dọc của HPV lần đầu tiên được báo cáo vào năm 1956 trong một trường hợp mắc bệnh u nhú thanh quản ở trẻ vị thành niên. Tỷ lệ nhiễm trùng HPV ở trẻ sơ sinh có sự biến đổi khác nhau, ước tính từ 4 - 79% ở trẻ 1 ngày tuổi sinh ra từ người mẹ có kết quả xét nghiệm HPV dương tính trong thời kỳ mang thai.” (2) (3)

bị hpv có sinh thường được không

Bị HPV có sinh thường được không?

Mẹ bầu bị HPV vẫn có thể sinh thường nếu tình trạng nhiễm trùng đã ổn định và đủ điều kiện để sinh nở tự nhiên bao gồm thể trạng tốt, không có vấn đề về sức khỏe làm cản trở đường ra của thai nhi, không bị viêm nhiễm phụ khoa và sức khỏe thai nhi tốt để vượt qua ống sinh của mẹ.

Sùi mào gà, do một số chủng HPV nguy cơ thấp (như HPV 6, HPV 11) gây ra, là một trong những biểu hiện phổ biến nhất liên quan đến HPV. Các mụn cóc ở vùng sinh dục thường không gây đau, nhưng nếu phát triển lớn và chặn đường sinh, có thể gây khó khăn khi sinh thường. Trong những trường hợp sùi mào gà lớn hoặc lan rộng, bác sĩ có thể đề nghị mổ lấy thai (sinh mổ) để giảm nguy cơ làm tổn thương mụn cóc trong quá trình sinh nở. Tuy nhiên, nếu sùi mào gà nhỏ và không gây cản trở, phụ nữ vẫn có thể sinh thường.

Với những phụ nữ nhiễm HPV nhưng không có tổn thương nghiêm trọng ở cổ tử cung (như các mảng loạn sản hoặc ung thư), việc sinh thường không bị ảnh hưởng. Cổ tử cung vẫn có thể đảm bảo quá trình giãn nở trong khi sinh. Tuy nhiên, nếu phụ nữ đã được điều trị bằng các phương pháp như khoét chóp cổ tử cung (LEEP) hoặc phẫu thuật do tổn thương tiền ung thư, cổ tử cung có thể yếu hơn hoặc khó giãn nở. Trong trường hợp này, bác sĩ sẽ đánh giá nguy cơ để quyết định phương pháp sinh phù hợp.

Trong quá trình sinh nở, những thay đổi về hormone trong thai kỳ có thể dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của mụn cóc sinh dục do nhiễm trùng HPV gây ra. Những tổn thương từ mụn cóc nổi tại thành âm đạo có có thể gây ra tình trạng khó giãn và chặn một phần của ống sinh khiến mẹ bầu khó có thể sinh thường, đòi hỏi phải thực hiện sinh mổ. Đồng thời, việc tiếp xúc với mụn cóc trong quá trình sinh nở có thể khiến trẻ nhiễm HPV dẫn đến bệnh u nhú đường hô hấp (thanh quản) mạn tính sau khi chào đời. (4)

Tuy vậy, do tỷ lệ lây truyền HPV và mụn cóc cho trẻ cực kỳ thấp (ngay cả khi trẻ bị nhiễm HPV vẫn có thể tự đào thải virus), nên các chuyên gia y tế cho rằng không nên thực hiện sinh mổ để dự phòng mụn cóc thanh quản cho trẻ.

mẹ ôm con
Bị HPV có sinh thường được không? Mẹ bầu bị HPV vẫn có thể sinh thường nếu tình trạng nhiễm trùng đã ổn định và đủ điều kiện để sinh thường.

Phân tích khả năng sinh thường khi bị HPV ở các trường hợp

Trong nhiều trường hợp, mẹ bầu bị HPV có thể sinh thường được không sẽ tùy thuộc vào mức độ nhiễm trùng, loại HPV lây nhiễm, tình trạng sức khỏe của cả mẹ và bé tại thời điểm sinh nở, cũng như các yếu tố tác động đến khả năng sinh tự nhiên. Tiêu chuẩn để đánh giá khả năng sinh thường của mẹ bầu cần do bác sĩ sản khoa theo dõi, xem xét tình hình thực tế và đưa ra chỉ định phù hợp nhất.

Đối với trường hợp mẹ bầu nhiễm HPV nhưng không có triệu chứng (như sùi mào gà, tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung) hoặc tổn thương cổ tử cung, thường được xem là nhóm nguy cơ thấp. Hệ miễn dịch của cơ thể thường có khả năng kiểm soát và loại bỏ virus trong vòng 1 - 2 năm mà không gây hậu quả đáng kể đến cơ quan sinh sản. Trong trường hợp này:

  • Khả năng sinh thường: Hoàn toàn không bị ảnh hưởng. HPV không gây tác động trực tiếp đến cấu trúc hoặc chức năng của cổ tử cung và ống sinh, nên phụ nữ có thể sinh thường một cách an toàn.
  • Nguy cơ lây nhiễm cho trẻ sơ sinh: Với trường hợp không có sùi mào gà hoặc tổn thương đường sinh dục, nguy cơ HPV lây truyền từ mẹ sang con qua quá trình sinh thường là rất thấp, nhờ khả năng bảo vệ của hệ miễn dịch tự nhiên.

Đối với trường hợp mẹ bầu nhiễm HPV kèm theo sùi mào gà ở vùng sinh dục, do sự thay đổi nội tiết tố và miễn dịch, sùi mào gà có thể phát triển nhanh hơn, to hơn, gây cản trở trong quá trình sinh thường.

  • Trường hợp sùi mào gà nhỏ, không cản trở đường sinh: Phụ nữ bị sùi mào gà nhỏ, không gây tổn thương hoặc tắc nghẽn đường sinh, vẫn có thể sinh thường. Tuy nhiên, nang bọc mụn cóc có thể bị rách trong khi sinh khiến máu hoặc dịch chứa virus tiếp xúc với trẻ sơ sinh, làm tăng nhẹ nguy cơ lây nhiễm.
  • Trường hợp sùi mào gà lớn, lan rộng: Với những trường hợp sùi mào gà phát triển đến mức cản trở đường thoát thai hoặc có nguy cơ chảy máu lớn khi sinh, bác sĩ thường khuyến nghị sinh mổ để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và bé. Ngoài ra, trẻ sinh qua đường âm đạo khi mẹ có sùi mào gà vùng sinh dục có nguy cơ mắc bệnh u nhú đường hô hấp tái phát (recurrent respiratory papillomatosis - RRP) - một bệnh hiếm liên quan đến sự phát triển khối u ở đường hô hấp của trẻ.

Đối với trường hợp mẹ bầu nhiễm HPV kèm tổn thương tiền ung thư cổ tử cung, không nhất thiết phải điều trị ngay lập tức trừ khi có dấu hiệu tiến triển nghiêm trọng, vì việc điều trị có thể gây ảnh hưởng đến cổ tử cung và khả năng giữ thai.

  • CIN1 và CIN2: Những mức độ tổn thương nhẹ đến trung bình của cổ tử cung thường không gây cản trở quá trình sinh nở. Phụ nữ vẫn có thể sinh thường an toàn, nhưng cần được bác sĩ theo dõi chặt chẽ trong suốt thai kỳ để đảm bảo tổn thương không tiến triển.
  • CIN3 hoặc ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu: Khi tổn thương tiền ung thư ở mức độ nặng (CIN3) hoặc tiến triển thành ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm, sinh thường có thể làm tăng nguy cơ tổn thương cổ tử cung hoặc chảy máu nghiêm trọng. Trong những trường hợp này, bác sĩ thường khuyên sinh mổ để đảm bảo an toàn.

Đối với trường hợp mẹ bầu nhiễm HPV nhưng đã điều trị tổn thương cổ tử cung từ trước thông qua các phương pháp như khoét chóp cổ tử cung (LEEP), sinh thiết hoặc phẫu thuật cắt bỏ tổn thương. Những phương pháp này có thể ảnh hưởng đến cấu trúc và độ bền của cổ tử cung, đặc biệt là khả năng giãn nở trong khi sinh.

  • Nếu cổ tử cung phục hồi hoàn toàn sau điều trị và không ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng, phụ nữ vẫn có thể sinh thường.
  • Nếu việc điều trị khiến cổ tử cung ngắn hoặc yếu, bác sĩ có thể lo ngại nguy cơ vỡ cổ tử cung hoặc không giãn nở được trong khi sinh. Trong trường hợp này, sinh mổ thường được khuyến nghị để tránh nguy hiểm.

Đối với trường hợp mẹ bầu nhiễm HPV kèm theo dấu hiệu ung thư cổ tử cung tiến triển đến giai đoạn muộn, việc sinh thường thường không được khuyến nghị. Các tổn thương ung thư làm tổn hại nghiêm trọng đến cấu trúc của cổ tử cung, gây ra nguy cơ chảy máu lớn, vỡ tử cung và đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người mẹ. Trong những trường hợp này, đội ngũ y tế sẽ ưu tiên an toàn cho cả mẹ và bé bằng cách sử dụng phương pháp sinh mổ hoặc can thiệp điều trị ung thư ngay sau khi em bé được sinh ra.

Trẻ sơ sinh có bị lây HPV khi sinh thường không?

Trẻ sơ sinh có khả năng bị lây HPV khi sinh thường. Theo các chuyên gia y tế, nguy cơ lây truyền HPV cho em bé trong thai kỳ tương đối thấp. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại đều chỉ ra rằng HPV có khả năng lây truyền cho trẻ thông qua nhau thai và nước ối. Đáng lưu ý, HPV có thể được lây nhiễm ngay tại thời điểm sinh nở, em bé có thể bị nhiễm bệnh và xuất hiện các triệu chứng sau vài tháng, trung bình khoảng 3 tháng nhưng có thể mất tới 20 tháng để các triệu chứng như mụn cóc sinh dục xuất hiện. (5)

Phân tích tổng hợp trên 3128 cặp mẹ - con sinh ra cho thấy trẻ sinh ra từ người mẹ dương tính với HPV có khả năng dương tính với HPV cao hơn 33% so với trẻ sinh ra người mẹ âm tính với HPV. Một đánh giá khác đã xác nhận việc lây truyền HPV trong tử cung, với tần suất gộp 4,9% đối với lây truyền HPV theo chiều dọc trước khi sinh. (6)

Các bệnh có thể mắc ở trẻ khi bị lây HPV từ mẹ

Các nghiên cứu đã chỉ ra, mối liên hệ giữa bệnh u nhú thanh quản và mụn cóc sinh dục ở người mẹ đối với thai nhi. Cứ 1000 phụ nữ mắc mụn cóc sinh dục thì có 7 người lây truyền HPV cho thai nhi trong thời kỳ mang thai.  Trẻ em mắc bệnh này thường được chẩn đoán ở độ tuổi từ 2 - 5 tuổi và có thể cần phải điều trị phẫu thuật nhiều lần trong suốt đời. (7)

1. U nhú đường hô hấp tái phát

U nhú đường hô hấp tái phát (RRP) là một tình trạng hiếm gặp và nghiêm trọng, trong đó các tổn thương giống mụn cóc phát triển liên tục trong đường hô hấp và có thể chuyển đổi ác tính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ.

Ở hầu hết trẻ em, nhiễm HPV xảy ra trong quá trình sinh nở vì đường sinh dục của người mẹ đóng vai trò là ổ chứa HPV.  Một nghiên cứu cho thấy 67% bà mẹ có con bị RRP có tiền sử bị mụn cóc hoạt động trong thời kỳ mang thai. Các chuyên gia y tế cho rằng sinh mổ có thể ngăn ngừa lây truyền HPV ở những bà mẹ bị sùi mào gà hoạt động trong thai kỳ, tuy nhiên vẫn có 12% trường hợp RRP lây truyền qua nhau thai. (8)

Tỷ lệ mắc bệnh RRP ước tính là 3,5 triệu trường hợp mỗi năm, với tỷ lệ lưu hành là 4/100.000 trẻ em. Bệnh nhân dưới 12 tháng tuổi thường mắc bệnh này với tỷ lệ tái phát cao so với người lớn. (9)

u nhú đường hô hấp tái phát
Bị HPV có sinh thường được không? Trẻ có thể bị lây nhiễm HPV từ mẹ gây ra tình trạng u nhú đường hô hấp tái phát.

2. U nhú sinh dục

U nhú sinh dục là những mụn nhỏ có màu da hoặc màu xám, xuất hiện ở vùng sinh dục, gây ngứa và kích ứng. Tình trạng u nhú sinh dục thường hiếm gặp ở trẻ, nhưng trong một số trường hợp, trẻ có thể bị ảnh hưởng bởi quá trình lây truyền theo chiều dọc qua nhau thai/ dây rốn khi ở trong bụng mẹ hoặc trong quá trình sinh nở, đồng thời trẻ cũng có thể bị nhiễm trùng qua người chăm sóc bị mụn cóc ở tay khi chào đời.

3. Ung thư vòm họng hoặc đường hô hấp

Trong những trường hợp cực kỳ hiếm, khi trẻ em bị nhiễm các chủng HPV nguy cơ cao (như HPV 16, HPV 18), có thể có nguy cơ mắc ung thư vòm họng hoặc đường hô hấp khi virus kích thích sự phát triển bất thường của tế bào trong các khu vực này. Các triệu chứng thường không rõ ràng ở giai đoạn đầu, nhưng có thể bao gồm khó thở, khàn giọng kéo dài và đau vòm họng.

Nếu bệnh tiến triển nặng mà không được phát hiện sớm, ung thư có thể ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và thậm chí đe dọa tính mạng trẻ. Khả năng trẻ bị lây nhiễm các chủng HPV nguy cơ cao qua mẹ là rất thấp, tuy nhiên nếu xảy ra, điều này có thể dẫn đến các bệnh lý nghiêm trọng trong tương lai.

Cách phòng tránh lây nhiễm HPV từ bố mẹ sang bé

Cách để phòng tránh lây nhiễm HPV hiệu quả nhất từ bố mẹ sang con chính là chủ động tiêm chủng dự phòng vắc xin phòng HPV trước khi có kế hoạch mang thai. Hiện có 2 loại vắc xin phòng HPV được chỉ định bao gồm Gardasil (phòng 4 chủng HPV) và Gardasil 9 (phòng 9 chủng HPV), với hiệu quả hơn 90% phòng các bệnh sinh dục,ung thư, tiền ung thư và loạn sản do HPV gây ra, từ đó hạn chế nguy cơ lây nhiễm HPV từ bố sang bé.

Đồng thời, đối với những trẻ từ 9 tuổi trở lên, bố mẹ có thể cho trẻ tiêm chủng dự phòng HPV để phòng ngừa nguy cơ mắc các bệnh do loại virus này gây ra.

Danh sách vắc xin phòng HPV

Tên vắc xin Đối tượng Lịch tiêm Đăng ký tiêm ngay!
Gardasil  Trẻ gái và phụ nữ từ 9 đến 26 tuổi Gồm 3 mũi cơ bản:

  • Mũi 1: Lần tiêm đầu tiên.
  • Mũi 2: 2 tháng sau mũi 1.
  • Mũi 3: 4 tháng sau mũi 2.
nút đăng ký tiêm vắc xin
Gardasil 9 Nam và nữ từ 9 - 45 tuổi Trẻ từ 9 - 14 tuổi, gồm 2 mũi:

Phác đồ 2 mũi

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 từ 6 - 12 tháng.

Nếu tiêm mũi 2 cách mũi 1 dưới 5 tháng, cần tiêm mũi 3 cách mũi 2 ít nhất 3 tháng.

Phác đồ 3 mũi (0-2-6):

  • Mũi 1: Lần tiêm đầu tiên
  • Mũi 2: 2 tháng sau mũi 1
  • Mũi 3: 4 tháng sau mũi 2

Người từ 15 - 45 tuổi, gồm 3 mũi:

  • Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
  • Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 2 tháng
  • Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 4 tháng.
nút đăng ký tiêm vắc xin

Tham khảo về vắc xin phòng HPV tại Hệ thống trung tâm tiêm chủng VNVC, Khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với VNVC thông qua hotline 028.7102.6595 hoặc inbox qua fanpage facebook VNVC - Trung tâm Tiêm chủng Trẻ em & Người lớn hoặc đến ngay các trung tâm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc để được nhân viên chăm sóc Khách hàng hướng dẫn chi tiết, được bác sĩ thăm khám sàng lọc, tư vấn sức khỏe và chỉ định tiêm ngừa phù hợp. 

Để phòng tránh nguy cơ lây nhiễm HPV cho trẻ, ngoài việc tiêm phòng vắc xin, cần kết hợp các biện pháp sau:

  • Kiểm tra sức khỏe trước khi mang thai: Cả bố và mẹ nên thực hiện xét nghiệm HPV trước khi có kế hoạch mang thai để xác định tình trạng nhiễm virus; Nếu phát hiện nhiễm HPV, cần tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn và điều trị phù hợp;
  • Giữ vệ sinh cá nhân: Vệ sinh cơ thể, đặc biệt là vùng sinh dục sạch sẽ; Tránh sử dụng chung các vật dụng cá nhân như khăn tắm, dao cạo, dụng cụ cắt móng tay;
  • Quan hệ tình dục an toàn: Không quan hệ tình dục bừa bãi với nhiều bạn tình và sử dụng các biện pháp an toàn như bao cao su sẽ hạn chế được nguy cơ mắc bệnh và lây nhiễm cho con;
  • Lối sống lành mạnh: Bổ sung đầy đủ chất dinh dưỡng, ngủ đủ giấc, rèn luyện thể dục thể thể thao, hạn chế hút thuốc lá và chất kích thích để tăng cường sức đề kháng và củng cố hệ miễn dịch.

⇒ Tìm hiểu thêm: Bị HPV có mang thai được không? Có gây ra các biến chứng thai kỳ không?

Tóm lại, bị HPV có sinh thường được không tùy thuộc vào sự theo dõi và xem xét của bác sĩ tại thời điểm sinh nở, dựa trên các yếu tố mức độ nhiễm trùng, thể trạng sức khỏe của cả mẹ và bé, đồng thời căn cứ vào những tiêu chuẩn đủ điều kiện có thể sinh thường. Tốt nhất, người mẹ cần chủ động dự phòng tiêm chủng HPV trước khi mang thai để mang lại hiệu quả phòng bệnh tối ưu và bảo vệ sức khỏe sinh sản toàn diện trước nguy cơ HPV xâm nhập.

Chủ đề: #hpv
09:48 25/07/2025
Share Facebook Share Twitter Share Pinterest
Nguồn tham khảo
  1. Expectant mothers who have HPV could be at high risk of giving birth prematurely. (2021, September 15). UdeMNouvelles. https://nouvelles.umontreal.ca/en/article/2021/09/15/expectant-mothers-who-have-hpv-could-be-at-high-risk-of-giving-birth-prematurely/
  2. Condrat, C. E., Filip, L., Gherghe, M., Cretoiu, D., & Suciu, N. (2021). Maternal HPV infection: effects on pregnancy outcome. Viruses, 13(12), 2455. https://doi.org/10.3390/v13122455
  3. Trottier, H., Mayrand, M., Coutlée, F., Monnier, P., Laporte, L., Niyibizi, J., Carceller, A., Fraser, W. D., Brassard, P., Lacroix, J., Francoeur, D., Bédard, M., Girard, I., & Audibert, F. (2016). Human papillomavirus (HPV) perinatal transmission and risk of HPV persistence among children: Design, methods and preliminary results of the HERITAGE study. Papillomavirus Research, 2, 145–152. https://doi.org/10.1016/j.pvr.2016.07.001
  4. Everlywell. (2022, October 27). HPV and pregnancy: key points to know. Everlywell Blog | At-Home Health & Wellness Insights. https://www.everlywell.com/blog/hpv/hpv-and-pregnancy/
  5. Human Papillomavirus and Pregnancy: Can HPV be passed from mother to child? (2021, June 29). Flo.health – #1 Mobile Product For Women’s Health. https://flo.health/menstrual-cycle/health/symptoms-and-diseases/human-papillomavirus-and-pregnancy
  6. Syrjänen, S., Waterboer, T., Rintala, M., Pawlita, M., Syrjänen, K., Louvanto, K., & Grenman, S. (2022). Maternal HPV-antibodies and seroconversion to HPV in children during the first 3 years of life. Scientific Reports, 12(1). https://doi.org/10.1038/s41598-022-06343-z
  7. The effect of HPV and genital warts on mode of delivery | Prof. Dr. Süleyman Akarsu. (n.d.). https://www.suleymanakarsu.com.tr/en/hpv-ve-dogum.php
  8. Recurrent Respiratory papillomatosis: an update. (n.d.). https://www.ijhns.com/abstractArticleContentBrowse/IJHNS/28085/JPJ/fullText
  9. Tasca, R. A. (2006). Recurrent respiratory papillomatosis. Archives of Disease in Childhood, 91(8), 689–691. https://doi.org/10.1136/adc.2005.090514

BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ