Virus HPV ở phụ nữ gây bệnh gì? Dấu hiệu bị nhiễm và nguyên nhân

16:54 03/12/2024

Quản Lý Y khoa vùng 2 - miền Bắc
Hệ thống tiêm chủng VNVC
HPV là tác nhân gây ra các tình trạng bệnh lý nhiễm trùng phổ biến lây truyền qua đường tình dục, là tác nhân hàng đầu cướp đi sinh mạng của hơn 270.000 phụ nữ trên toàn thế giới mỗi năm (1). Thực tế, khoảng 80% phụ nữ hoạt động tình dục sẽ bị nhiễm ít nhất một loại HPV trong suốt cuộc đời và tỷ lệ tái nhiễm có thể lên đến 39%, tạo ra gánh nặng bệnh tật nghiêm trọng cho phái nữ. Vậy HPV ở phụ nữ gây ra những bệnh gì? Nguyên nhân và dấu hiệu bị nhiễm HPV là gì? Cùng chuyên gia VNVC tìm hiểu chi tiết trong bài viết dưới đây!
BS Đoàn Thị Khánh Châm, Quản Lý Y khoa vùng 2 - miền Bắc, Hệ thống tiêm chủng VNVC cho biết: “Theo các nghiên cứu đã phát hiện ra, có gần 40% phụ nữ trong độ tuổi từ 15-59 bị nhiễm ít nhất một HPV mỗi năm và tỷ lệ 8/10 phụ nữ sẽ bị nhiễm HPV vào một thời điểm nào đó trong đời. Phụ nữ hoặc những người AFAB (được chỉ định là nữ khi sinh ra) có thể mắc 5 trong 6 loại ung thư liên quan đến các chủng HPV nguy cơ cao gồm ung thư cổ tử cung, ung thư âm đạo, ung thư âm hộ, ung thư hậu môn, ung thư miệng và họng. Tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ dao động trong khoảng từ 2 - 11%, và ước tính có khoảng 4.132 phụ nữ được chẩn đoán mắc ung thư cổ tử cung mỗi năm.” (2) |
Tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ tại Việt Nam
HPV (Human Papilloma Virus) là virus gây u nhú ở người, có DNA dạng vòng, không vỏ bọc, sợi đôi, xâm nhập vào biểu mô thông qua sự phá vỡ da hoặc niêm mạc và lây nhiễm vào các tế bào gốc cơ bản. Theo các chuyên gia y tế, phần lớn các trường hợp nhiễm HPV là tiềm ẩn và hầu hết các tổn thương lâm sàng biểu hiện dưới dạng mụn cóc chứ không phải là khối u ác tính. Tùy thuộc vào từng phân nhóm, HPV có thể tiến triển thành ung thư nguy hiểm. (3)
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng Dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ, có khoảng 85% người bị nhiễm HPV trong suốt cuộc đời. Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều biểu hiện tiềm ẩn, có thể tự đào thải virus, có khoảng 85 - 90% trường hợp tổn thương cổ tử cung tự khỏi sau 2 năm. Tuy nhiên 10 - 15% bệnh nhân bị nhiễm trùng dai dẳng và trong một số trường hợp, phát triển thành ung thư cổ tử cung. (4)
Tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HPV khoảng 8 - 11% tùy vào vùng miền, trong đó có ít nhất 50% phụ nữ đã nhiễm HPV trong đời (theo số liệu từ Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật, Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh). Theo thống kê từ ICO/IARC Information Centre on HPV and Cancer (Trung tâm thông tin HPV), khoảng 39,1 triệu phụ nữ Việt từ 15 tuổi trở lên có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung, ước tính có khoảng 2,1% phụ nữ Việt mang HPV tuýp 16 và 18 (chiếm 70% nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung) và khoảng 82,8% mắc bệnh ung thư cổ tử cung xâm lấn.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện có hơn 200 chủng loại HPV khác nhau, trong đó có khoảng 40 chủng có khả năng gây bệnh và 14 loại nguy cơ cao gồm: 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66 và 68, gây ra 4,5% trong số các loại ung thư trên thế giới. Các chủng HPV nguy cơ thấp như: 6, 11, 42, 43 và 44, là nguyên nhân gây ra các tình trạng bệnh lý sinh dục như mụn cóc sinh dục, sùi mào gà… (5)
Nguyên nhân bị HPV ở nữ
Thông thường, HPV trú ngụ trong một số tế bào nhất định được gọi là tế bào biểu mô vảy - đây là tế bào bình thường được tìm thấy trên bề mặt da và niêm mạc. Do đó, đường HPV lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc da kề da, đặc biệt là trong quan hệ tình dục, HPV có thể xâm nhập vào cơ thể qua bất kỳ niêm mạc nào, bao gồm cả đường âm đạo, hậu môn và miệng.
Đường lây nhiễm HPV ở phụ nữ phổ biến nhất là:
- Đường tình dục: Quan hệ tình dục qua đường âm đạo, miệng hoặc hậu môn. HPV có khả năng lây nhiễm, ngay cả khi không xuất hiện triệu chứng. Tỷ lệ trung bình lây nhiễm HPV khi quan hệ là khoảng 40%;
- Lây truyền qua tiếp xúc: HPV có thể lây truyền không qua đường tình dục như các bề mặt, dụng cụ dùng chung cho chứa virus như vật dụng vệ sinh cá nhân, quần áo, thiết bị phụ khoa...
- Lây truyền từ mẹ qua con: HPV có thể lây truyền từ mẹ sang trẻ trong quá trình sinh nở, nhưng tỷ lệ rất thấp. Trong một số trường hợp hiếm gặp, trẻ sinh ra từ người mẹ bị mụn cóc sinh dục có thể phát triển mụn cóc ở cổ họng. Tình trạng nghiêm trọng này được gọi là bệnh u nhú đường hô hấp và cần phẫu thuật laser thường xuyên để ngăn ngừa mụn cóc chặn đường thở của bé.
Dấu hiệu nhiễm HPV ở phụ nữ
Hầu hết những người nhiễm HPV thường không biểu hiện triệu chứng điển hình nào. Đó là lý do tại sao việc khám sức khỏe và tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ lại quan trọng đến vậy. Trong một số trường hợp, HPV có khả năng gây ra một số triệu chứng đặc trưng ở phụ nữ, cụ thể như:
- Mụn cóc sinh dục: Một số loại HPV có thể gây mụn cóc sinh dục - đó là những khối u nhỏ trên da hoặc các cục u giống như súp lơ. Mụn cóc sinh thường thường phát triển ở phần âm hộ, hoặc xuất hiện gần hậu môn, trên tử cung hoặc bên trong âm đạo, thường không gây đau nhưng sẽ tạo cảm giác ngứa, khó chịu;
- Đau vùng chậu: Phổ biến ổ phụ nữ, cơn đau có thể giống với những cơn đau thông thường, tần suất liên tục và có thể trở nên tồi tệ hơn khi quan hệ tình dục. Ngay cả khi cơn đau vùng chậu chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện, nhưng cũng không được chủ quan, chị em phụ nữ cần đi khám bác sĩ phụ khoa để được chẩn đoán và can thiệp các phương pháp điều trị dứt điểm kịp thời;
- Chảy máu âm đạo hoặc khí hư bất thường: Những thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt hoặc khí hư bất thường ở âm đạo có thể là dấu hiệu cho biết ung thư do HPV gây ra. Nếu có các dấu hiệu như chảy máu bất thường giữa các kỳ kinh, chảy máu sau mãn kinh, chu kỳ kinh nguyệt kéo dài hơn hoặc khí hư bất thường có lẫn máu, nước và mùi hôi, cần khẩn trương thăm khám bác sĩ để được thăm khám kịp thời.
Virus HPV ở nữ gây bệnh gì?
Các chuyên gia y tế đều đồng ý rằng mối lo ngại y tế lớn nhất liên quan đến HPV là ung thư. Theo ước tính, HPV gây ra khoảng 3% trong số tất cả các trường hợp ung thư mới, với gần 36.000 trường hợp ung thư mỗi năm, bao gồm: 99% ung thư cổ tử cung, 90% ung thư hậu môn, 70% ung thư vòm họng, 65% ung thư âm đạo, 50% ung thư âm hộ và một số loại ung thư và các bệnh đường sinh dục khác.
1. Ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung là ung thư từ các tế bào của cổ tử cung - phần dưới, hẹp, nối tử cung với âm đạo. Căn bệnh ung thư này thường phát triển chậm theo thời gian. Trước khi phát triển thành ung thư, các tế bào của cổ tử cung có thể trải qua những thay đổi được gọi là loạn sản, trong đó các tế bào bất thường bắt đầu xuất hiện trong mô cổ tử cung.
Theo thời gian, nếu không bị phá hủy hoặc loại bỏ, các tế bào bất thường có thể trở thành tế bào ung thư và bắt đầu phát triển, lan rộng sâu hơn vào cổ tử cung và các khu vực xung quanh.
Ung thư cổ tử cung được đặt tên theo loại tế bào nơi ung thư bắt đầu, gồm 2 loại chính:
- Ung thư biểu mô tế bào vảy: 90% các loại ung thư cổ tử cung là ung thư biểu mô tế bào vảy, đây là dạng phát triển từ các tế bào ở cổ tử cung ngoài;
- Ung thư biểu mô tuyến: Phát triển trong các tế bào tuyến ở nội cổ tử cung. Ung thư biểu mô tuyến tế bào sáng
Theo các chuyên gia y tế, HPV là nguyên nhân hàng đầu gây ra ung thư cổ tử cung, cứ hơn 9 trong số 10 trường hợp ung thư cổ tử cung là do HPV gây ra (>99%). và 75% các trường hợp gây ra bởi tuýp HPV nguy cơ cao là HPV 16 và 18.
Hằng năm, có hơn 500.000 ca ung thư cổ tử cung mới và khoảng 250.000 ca tử vong do ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới. Tỷ lệ tử vong cao hơn ở những phụ nữ không được sàng lọc trong 5 năm qua và những người không được theo dõi thường xuyên sau khi xác định tổn thương tiền ung thư cổ tử cung.
2. Sùi mào gà
Sùi mào gà là một dạng mụn cóc sinh dục, bệnh lây truyền qua đường tình dục rất phổ biến, biểu hiện với những cục u nhỏ có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, thường ở các bộ phận như âm đạo, cổ tử cung, dương vật, hậu môn, miệng… Bệnh có thể gây ra tình trạng ngứa ngáy, khó chịu, ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt và đời sống của người bệnh.
Theo các chuyên gia y tế, HPV tuýp 6 và 11 là nguyên nhân gây ra 90% trường hợp mụn cóc sinh dục. Khoảng 30% mụn cóc sinh dục sẽ biến mất trong vòng 4 tháng kể từ khi xuất hiện lần đầu. Hầu hết mụn cóc sinh dục sẽ tái phát trong vòng ba tháng sau khi hoàn thành liệu pháp ban đầu, ngay cả khi liệu pháp được thực hiện đúng cách. Tỷ lệ tái phát mụn cóc sinh dục phụ thuộc vào sức khỏe tổng quát và tình trạng miễn dịch của bệnh nhân.
3. Ung thư âm đạo
Ung thư âm đạo là hiện tượng các tế bào âm đạo (ống dẫn từ cổ tử cung với các bộ phận sinh dục ngoài) có sự thay đổi trong DNA. Thông thường, ung thư bắt nguồn ở âm đạo rất hiếm gặp, hầu hết là xảy ra ở các bộ phận khác rồi lan đến âm đạo. Ung thư âm đạo chiếm chưa đến 2% trong số các bệnh ác tính phụ khoa, với tỷ lệ mắc hàng năm là 0,7/100.000 và khoảng 1.178 ca mắc mới mỗi năm.
Theo thống kê, khoảng 75% ung thư âm đạo là do HPV gây ra. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, HPV (đặc biệt là loại HPV tuýp 16 và 18) là nguyên nhân chính gây ra chứng loạn sản biểu mô âm đạo (VAIN) - một tình trạng tiền ung thư. Khi một phụ nữ mắc VAIN, các tế bào ở lớp niêm mạc bên trong sẽ trở nên bất thường nhưng không đến mức phân loại là ung thư. Sau một khoảng thời gian, nhiều trường hợp VAIN cuối cùng sẽ phát triển thành ung thư.
4. Ung thư âm hộ
Ung thư âm hộ là một căn bệnh hiếm gặp, chiếm khoảng 4% trong số các bệnh ác tính phụ khoa, trong đó ung thư biểu mô vảy âm hộ là phân nhóm mô học phổ biến nhất. Căn bệnh ung thư này thường xảy ra ở phụ nữ lớn tuổi, trung bình mỗi năm, 40% ca mắc ung thư âm hộ mới là ở phụ nữ từ 75 tuổi trở lên. Tuy nhiên, ung thư âm hộ cũng có thể xảy ra ở phụ nữ trẻ nhưng thường rất hiếm gặp.
Triệu chứng báo hiệu ung thư âm hộ thường rất khó kiểm tra, thường là các dấu hiệu như ngứa, rát, đau âm hộ, xuất hiện khối u, vết loét, sưng tấy hoặc phát triển giống như mụn cóc ở âm hộ, máu - mủ hoặc chất dịch chảy ra từ chỗ đau âm hộ, hạch bạch huyết cứng hoặc sưng ở vùng bẹn.
Theo thống kê, gần 70 trong số 100 ca ung thư âm hộ là do HPV gây ra. Có nhiều loại HPV khác nhau gây ra ung thư âm đạo, phổ biến như: HPV tuýp 16, 33, 18. Bên cạnh đó, còn có nhiều yếu tố nguy cơ khác có thể làm tăng khả năng mắc ung thư âm hộ ở phụ nữ, chẳng hạn như tuổi tác, nhiễm HIV, hút thuốc lá, u hắc tố…

5. Ung thư hậu môn
Theo các chuyên gia y tế, nhiễm trùng HPV ở cả nam và nữ là yếu tố quan trọng nhất đối với ung thư hậu môn, khoảng 90% trường hợp ung thư hậu môn liên quan đến nhiễm HPV và hai loại HPV tuýp 16 và 18 được tìm thấy ở hơn 70% các loại ung thư này.
Ung thư hậu môn là một khối u hiếm gặp, tương ứng với khoảng 2% các loại ung thư ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa. Khoảng 48.000 ca ung thư hậu môn mới được chẩn đoán mỗi năm trên toàn thế giới, với tỷ lệ mắc cao nhất ở nhóm tuổi từ 58 - 64.
Hầu hết các trường hợp ung thư hậu môn đều không xuất hiện triệu chứng điển hình. Một số dấu hiệu như đau hoặc ngứa hậu môn, chảy máu từ hậu môn, khối u hoặc vết sưng ở hậu môn, nhưng rất dễ bị nhầm lẫn với các bệnh trĩ, mụn thịt, mụn cóc hậu môn…
6. Một số ảnh hưởng đến mang thai
Nhiều phụ nữ lo lắng về việc nhiễm trùng HPV có thể ảnh hưởng đến khả năng thụ thai và mang thai, tuy nhiên thực tế HPV không gây vô sinh, chỉ khi HPV cùng tồn tại với vi khuẩn Chlamydia trachomatis thì nguy cơ vô sinh mới tăng lên. Nhưng theo nhiều nghiên cứu cho thấy, việc nhiễm trùng HPV trong khi mang thai có nguy cơ gây ra sảy thai cao hơn.
Nhiễm trùng HPV có thể ảnh hưởng đến khả năng mang thai nếu triệu chứng tiến triển thành các mụn cóc lớn đến mức chặn lối vào âm đạo của người bệnh. Bản thân HPV khiến phôi khó hoặc thậm chí không thể làm tổ trong tử cung do hậu quả của các phương pháp điều trị phẫu thuật. Điều này bao gồm cắt bỏ một phần cổ tử cung hoặc toàn bộ tử cung hoặc xạ trị tại chỗ.
Trong hầu hết các trường hợp, HPV sẽ không gây hại cho thai nhi nhưng có nguy cơ lây truyền cho thai nhi trong quá trình sinh thường, chiếm khoảng 40% trường hợp. Một số người bị HPV có tỷ lệ biến chứng thai kỳ cao hơn như vỡ màng ối sớm, nhiễm trùng đường hô hấp (u nhú hầu họng) ở trẻ nhưng đều rất hiếm gặp.
Phòng ngừa bệnh HPV ở phụ nữ là rất quan trọng
1. Vắc xin HPV
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tiêm vắc xin là cách tốt nhất để ngăn ngừa nhiễm HPV, giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh đường sinh dục, ung thư cổ tử cung và các loại ung thư liên quan đến HPV khác. Theo thống kê, vắc xin phòng HPV có khả năng ngăn ngừa hơn 90% các bệnh ung thư do HPV gây ra, ngày càng ít thanh thiếu niên và người trẻ tuổi mắc bệnh mụn cóc sinh dục, giảm đáng kể trường hợp ung thư cổ tử cung ở phụ nữ trẻ.
Đặc biệt, sự bảo vệ của vắc xin HPV duy trì trong một khoảng thời gian dài. Những người được tiêm vắc xin HPV được theo dõi trong ít nhất khoảng 12 năm và khả năng bảo vệ chống lại HPV vẫn ở mức cao mà không có bằng chứng nào cho thấy giảm theo thời gian.
Tại Việt Nam và nhiều quốc gia trên toàn thế giới đang lưu hành phổ biến 2 loại vắc xin phòng HPV, bao gồm: vắc xin Gardasil phòng 4 chủng và vắc xin Gardasil 9 phòng 9 chủng HPV. Trong đó, vắc xin Gardasil được chỉ định chủng ngừa cho bé gái và phụ nữ từ 9 - 26 tuổi, phòng các bệnh do HPV 6, 11, 16 và 18 gây ra.
Vắc xin Gardasil 9 phòng HPV được chỉ định tiêm cho đối tượng từ 9 - 45 tuổi, ở cả nam và nữ, cộng đồng LGBTQ+, không giới hạn yếu tố quan hệ tình dục. Trong đó nhóm tuổi từ 9 - 14 tuổi cần tiêm 2 mũi và nhóm từ 15 - 45 tuổi cần tiêm 3 mũi vắc xin với lịch thường quy là 0 - 2 - 6 tháng. Vắc xin chống chỉ định với những đối tượng có tiền sử phản ứng dị ứng với thành phần vắc xin hoặc xảy ra phản ứng dị ứng nặng ở lần tiêm chủng trước đó.
Nếu có nhu cầu tiêm vắc xin phòng HPV hoặc bất kỳ vắc xin nào khác tại VNVC, Quý Khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với VNVC thông qua hotline 028.7102.6595 hoặc inbox qua fanpage facebook VNVC - Trung tâm Tiêm chủng Trẻ em Người lớn hoặc đến ngay các trung tâm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc để được nhân viên chăm sóc Khách hàng hướng dẫn chi tiết, được bác sĩ thăm khám sàng lọc, tư vấn sức khỏe và chỉ định tiêm ngừa phù hợp.
2. Quan hệ tình dục an toàn
Một trong những cách phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm HPV ở phụ nữ hiệu quả nhất là quan hệ tình dục an toàn, thông qua việc quan hệ với bạn tình sử dụng bao cao su mỗi khi thực hiện quan hệ qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc giao hợp. Đây là biện pháp dễ thực hiện, không phức tạp nhưng mang lại hiệu quả cao.
Trong trường hợp quan hệ bằng đường miệng, có thể dùng màng chắn miệng (bao cao su cho lưỡi), giúp miệng không tiếp xúc trực tiếp với bộ phận sinh dục, hạn chế nguy cơ lây nhiễm HPV. Bên cạnh đó, sau khi quan hệ tình dục xong, nữ giới nên dùng nước súc miệng hoặc súc miệng bằng nước muối, vệ sinh cơ thể một cách nhẹ nhàng bằng nước ấm, không cần dùng đến tampon hay thuốc xịt đặc biệt. Hãy nhẹ nhàng vệ sinh âm hộ từ trước ra phía sau để không làm lây lan vi khuẩn.
3. Chung thủy một bạn tình
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, quan hệ tình dục không an toàn với nhiều người trong thời gian ngắn có thể làm tăng nguy cơ mắc HPV. Do đó, việc hạn chế số lượng bạn tình và tránh quan hệ tình dục với những người đã có nhiều bạn tình khác có thể giúp làm giảm nguy cơ lây nhiễm HPV hiệu quả.

4. Khám phụ khoa định kỳ
Giai đoạn tiền ung thư hiếm khi biểu hiện triệu chứng, đó là lý do tại sao việc sàng lọc ung thư cổ tử cung thường xuyên là quan trọng, ngay cả khi đã tiêm vắc xin phòng ngừa. Các chuyên gia y tế khuyên phụ nữ nên thực hiện xét nghiệm Pap bắt đầu từ năm 21 tuổi và sau đó tiếp tục thực hiện 3 năm/ lần. Chiến lược toàn cầu khuyến khích tối thiểu hai lần sàng lọc trong đời bằng xét nghiệm HPV hiệu suất cao ở độ tuổi 35 và một lần nữa ở độ tuổi 45.
Ung thư cổ tử cung có thể chữa khỏi nếu được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn đầu của bệnh. Nhận biết các triệu chứng và tiếp nhận lời khuyên y tế để giải quyết bất kỳ các triệu chứng khởi điểm là vô cùng quan trọng. Do đó, phụ nữ cần đi khám phụ khoa định kỳ (trong đó có tầm soát) để phát hiện kịp thời các dấu hiệu bệnh sớm nhất, hỗ trợ quá trình điều trị diễn ra suôn sẻ.
5. Nâng cao sức đề kháng
Việc nâng cao sức đề kháng và duy trì hệ thống miễn dịch khỏe mạnh góp phần hỗ trợ phòng ngừa các bệnh do HPV gây ra. Một số hoạt động nâng cao sức đề kháng có thể kể đến như sau:
- Duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, đầy đủ, tăng cường một số vitamin nhóm B bao gồm B1, B12, Folate: Các thực phẩm như sữa, pho mát, rau, thịt gà, trứng…
- Rèn luyện thể dục, thể thao: Giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể chống lại sự tấn công của mầm bệnh ngoài môi trường, đồng thời giải phóng những độc tố, trao đổi chất hiệu quả. Một số bài tập thể dục phù hợp, cụ thể như đi bộ, chạy bộ, đánh banh, yoga...
- Không hút thuốc lá: Thuốc lá được coi là thủ phạm làm giảm hoạt động của hệ thống miễn dịch. Do đó, cần bỏ thuốc lá để giúp hệ thống miễn dịch trẻ hóa và phát huy vai trò chống lại nhiễm trùng;
- Giảm căng thẳng: Nồng độ hormone căng thẳng tăng cao có thể phá vỡ hoạt động bình thường của hệ thống miễn dịch. Việc thay đổi tâm trạng, suy nghĩ tích cực, thoải mái là cách tốt nhất có thể giúp bình thường hóa nồng độ hormone căng thẳng.
Phương pháp chẩn đoán nhiễm HPV ở nữ giới
1. Xét nghiệm Pap smear
Xét nghiệm Pap smear hay gọi tắt là xét nghiệm Pap là một phương pháp xét nghiệm tế bào học giúp phát hiện những tế bào bất thường ở cổ tử cung, được thực hiện bằng cách thu thập và kiểm tra các tế bào ở khu vực cổ tử cung (phần dưới của tử cung) để quan sát kỹ trong phòng thí nghiệm dưới kính hiển vi.
Quy trình thực hiện xét nghiệm Pap được diễn ra khi chuyên gia sẽ đặt dụng cụ mỏ vịt vào bên trong âm đạo. Dụng cụ này bằng kim loại hoặc nhựa giúp giữ cho âm đạo mở để có thể nhìn rõ cổ tử cung. Tiếp theo, chuyên gia sẽ dùng bàn chải hoặc một dụng cụ có hình dạng giống cái thìa để lấy mẫu tế bào và chất nhầy được cạo nhẹ từ cổ tử cung ngoài và trong. Sau đó, các mẫu sẽ được xem xét và phân tích trong phòng thí nghiệm.
Xét nghiệm Pap thành công hơn bất kỳ xét nghiệm sàng lọc nào khác trong việc ngăn ngừa ung thư cổ tử cung, với độ nhạy trong khoảng 50 - 80%. Tần suất xét nghiệm sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác, tiền sử sức khỏe và kết quả xét nghiệm Pap hoặc xét nghiệm HPV gần nhất. Hầu hết phụ nữ đều không cần xét nghiệm Pap sau 65 tuổi. Các mốc thực hiện xét nghiệm Pap được khuyến nghị cho nữ giới như sau:
Dưới 21 tuổi | Không cần thiết (nguy cơ ung thư cổ tử cung thường rất thấp trước 21 tuổi) |
Từ 21 - 29 tuổi | 3 năm/lần |
Từ 30 - 65 tuổi | 3 năm/lần đối với chỉ xét nghiệm Pap hoặc 5 năm/lần đối với kết hợp xét nghiệm Pap và xét nghiệm HPV |
Trên 65 tuổi | Không cần thiết nếu chưa bao giờ có kết quả tế bào cổ tử cung bất thường hoặc kết luận ung thư cổ tử cung hoặc có 3 kết quả xét nghiệm Pap bình thường liên tiếp trong 10 năm. |
2. Xét nghiệm HPV DNA
Xét nghiệm HPV DNA là phương pháp giúp phát hiện các chủng HPV có nguy cơ cao có thể gây ung thư cổ tử cung, bao gồm HPV 16 và 18, chiếm phần lớn các loại ung thư liên quan đến HPV. Quy trình xét nghiệm HPV DNA cũng tương tự với việc xét nghiệm Pap smear.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị, nên xét nghiệm HPV DNA 3 - 5 năm/ lần, bắt đầu từ độ tuổi 30. Đối với những người có kết quả xét nghiệm dương tính với HPV trước đó hoặc có hệ miễn dịch suy yếu, chẳng hạn như bệnh nhân HIV, nên thực hiện xét nghiệm thường xuyên hơn, khoảng 3 - 5 năm/ lần, bắt đầu từ độ tuổi 25, vì hệ miễn dịch không đủ khả năng để đào thải virus hiệu quả.
3. Sinh thiết cổ tử cung (nếu cần)
Trong trường hợp xét nghiệm Pap có kết quả bất thường, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện thêm xét nghiệm DNA HPV. Nếu kết quả là dương tính, lúc này bác sĩ sẽ yêu cầu người bệnh thực hiện sinh thiết cổ tử cung.
Quá trình sinh thiết cổ tử cung là thủ thuật lấy mô cổ tử cung để xét nghiệm các tình trạng bất thường hoặc tiền ung thư, ung thư cổ tử cung, với 3 loại chính như sau:
- Sinh thiết đục lỗ: Sử dụng lưỡi dao tròn, giống với dụng cụ đục lỗ giấy, để lấy mẫu mô. Có thể thực hiện một hoặc nhiều sinh thiết đục lỗ ở các vùng khác nhau của cổ tử cung;
- Sinh thiết hình nón: Sử dụng tia laser, vòng điện hoặc dao mổ để loại bỏ một mảnh mô hình nón lớn từ cổ tử cung;
- Nạo cổ tử cung (ECC): Sử dụng một dụng cụ hẹp gọi là nạo để nạo niêm mạc ống cổ tử cung. Đây là khu vực không thể nhìn thấy từ bên ngoài cổ tử cung.
Điều trị HPV ở nữ
Điều trị HPV ở nữ giới là một vấn đề quan trọng trong sức khỏe cộng đồng, bởi HPV là nguyên nhân hàng đầu gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như mụn cóc sinh dục, tổn thương tiền ung thư và đặc biệt là ung thư cổ tử cung. Việc điều trị HPV hiện nay không tập trung vào loại bỏ hoàn toàn virus ra khỏi cơ thể, mà mục tiêu chính là kiểm soát triệu chứng, ngăn ngừa biến chứng, và giảm nguy cơ lây lan.
Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có phương pháp hay thuốc điều trị đặc hiệu nào để diệt virus HPV nếu bệnh tình không biểu hiện các triệu chứng cụ thể. Hầu hết, việc điều trị HPV sẽ tập trung vào kiểm soát và làm thuyên giảm triệu chứng, chẳng hạn như: Đối với người bệnh xuất hiện hiện tượng sùi mào gà, mụn cóc sinh dục, bác sĩ sẽ sử dụng thuốc bôi tại chỗ như Imiquimod, Podophyllin, hoặc Axit Trichloroacetic (TCA) để làm giảm và loại bỏ mụn cóc.
Trong những trường hợp mụn cóc lớn hoặc kháng thuốc, bác sĩ có thể sử dụng thủ thuật loại bỏ các tổn thương do HPV gây ra bằng liệu pháp đông lạnh (cryotherapy), đốt điện, phẫu thuật cắt bỏ hoặc điều trị bằng laser CO2 sẽ được áp dụng để loại bỏ tổn thương triệt để hơn.
Đối với tổn thương tiền ung thư cổ tử cung, điều trị phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tổn thương. Với tổn thương nhẹ (CIN 1), thường không cần can thiệp điều trị mà chỉ cần theo dõi định kỳ, vì cơ thể có khả năng tự loại bỏ virus. Tuy nhiên, nếu tổn thương ở mức trung bình đến nặng (CIN 2, CIN 3), bác sĩ sẽ áp dụng các phương pháp can thiệp như khoét chóp cổ tử cung (LEEP), phẫu thuật cắt bỏ mô tổn thương bằng tia laser, hoặc trong trường hợp nghiêm trọng, có thể phải cắt bỏ tử cung để ngăn ngừa ung thư xâm lấn.
Trong trường hợp HPV tiến triển gây ung thư cổ tử cung, việc điều trị sẽ phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Ở giai đoạn sớm, cắt bỏ tử cung là phương pháp chủ yếu, giúp loại bỏ tế bào ung thư hiệu quả. Với các giai đoạn bệnh đã tiến triển, xạ trị và hóa trị sẽ được áp dụng để kiểm soát và điều trị ung thư. Mỗi phương pháp được chọn đều nhằm tối ưu hóa hiệu quả điều trị và giảm thiểu nguy cơ biến chứng lâu dài.
Ngoài điều trị trực tiếp, việc tăng cường hệ miễn dịch đóng vai trò chủ chốt trong kiểm soát HPV. Chế độ sinh hoạt lành mạnh, dinh dưỡng hợp lý, tránh căng thẳng, và không hút thuốc lá được khuyến nghị để giúp cơ thể chống lại virus hiệu quả hơn. Quan trọng, nữ giới cũng cần thực hiện tiêm vắc xin HPV để phòng ngừa các chủng HPV nguy cơ cao, đặc biệt ở những phụ nữ chưa từng nhiễm virus.
Bên cạnh đó, nữ giới cần thực hiện công tác tầm soát và xét nghiệm theo định kỳ để phát hiện sớm các tế bào bất thường hoặc việc nhiễm HPV để được can thiệp và điều trị kịp thời, gia tăng tỷ lệ chữa khỏi bệnh thành công.

Nhiễm HPV ở phụ nữ là một trong những tình trạng phổ biến, có nguy cơ gây ra các bệnh đường sinh dục, tiền ung thư, loạn sản hoặc ung thư nguy hiểm. Đặc biệt là khi bệnh do HPV gây ra thường tiềm ẩn, biểu hiện không rõ ràng, có thể tự khỏi hoặc “âm thầm” phát triển và bùng phát bệnh, nguy cơ xâm lấn sang nhiều cơ quan khác, ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe, thậm chí đe dọa đến tính mạng. Do đó, phụ nữ cần tiêm đầy đủ các mũi vắc xin phòng bệnh, thực hiện tầm soát theo định kỳ, để bảo vệ bản thân một cách tốt nhất.



- Preventing cervical cancer, a leading cause of women’s death in many developing countries. (n.d.). United Nations Population Fund. https://www.unfpa.org/news/preventing-cervical-cancer-leading-cause-women%E2%80%99s-death-many-developing-countries
- Wiginton, K. (2024, September 15). Human papillomavirus (HPV). WebMD. https://www.webmd.com/sexual-conditions/hpv-genital-warts/hpv-virus-information-about-human-papillomavirus
- Luria, L., Cardoza-Favarato, G. (2023, January 16). Human papillomavirus. StatPearls – NCBI Bookshelf. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK448132/
- Colpofix International. (2021, November 26). What is human papillomavirus (HPV). Colpofix International – the Only Vaginal Spray Gel. https://www.colpofix.com/what-is-hpv/
- 10 things you might not know about HPV. (2024, January 5). Right as Rain by UW Medicine. https://rightasrain.uwmedicine.org/life/sex/10-things-you-might-not-know-about-hpv