Bệnh quai bị ở trẻ: Nguyên nhân, triệu chứng, cách phòng ngừa và điều trị
Bệnh quai bị ở trẻ em thường lành tính nhưng có khả năng lây lan cực kỳ nhanh chóng qua đường hô hấp, nhất là ở những trẻ chưa được tiêm ngừa đầy đủ 2 mũi vắc xin có chứa thành phần quai bị. Trẻ mắc quai bị nếu không được điều trị kịp thời và chăm sóc đúng cách có thể gây ra các biến chứng viêm nhiễm đa cơ quan rất nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, viêm tụy, viêm tinh hoàn, viêm mào tinh hoàn ở bé trai, viêm buồng trứng ở bé gái, nguy cơ gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người bệnh.
BS Trần Huỳnh Tấn - Quản lý Y khoa vùng TP.HCM, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho biết: “Mặc dù bệnh quai bị thường lành tính nhưng tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng dịch và biến chứng nặng, bệnh được xếp hàng thứ 7 trong số 24 bệnh lý truyền nhiễm gây dịch được quản lý tại Việt Nam. Có đến 10 - 15% trường hợp mắc quai bị biến chứng viêm màng não, 20 - 30% nam giới bị viêm tinh hoàn sau tuổi dậy thì, 25% phụ nữ mang thai bị sảy thai trong 3 tháng đầu thai kỳ và khoảng 0,02 - 0,03% trường hợp mắc quai bị có thể biến chứng viêm não và di chứng tàn tật vĩnh viễn hoặc thậm chí tử vong. Do đó, cần chủ động tiêm ngừa vắc xin phòng quai bị cho cả trẻ em và người lớn.” |
Bệnh quai bị ở trẻ em là gì?
Quai bị ở trẻ em là bệnh lý truyền nhiễm cấp tính gây ra do virus quai bị (Mumps virus) với biểu hiện lâm sàng điển hình là tình trạng sưng tấy, đau nhức không hóa mủ vùng tuyến nước bọt ở mang tai. Khi trẻ mắc quai bị, các cơ quan khác trên khắp cơ thể cũng có thể bị viêm, gây tổn thương đa cơ quan, rối loạn chức năng của các cơ quan quan trọng như hệ thần kinh trung ương, tuyến tụy, tinh hoàn, buồng trứng,...
Tuy nhiên, bệnh quai bị ở trẻ em thường lành tính, nếu được chăm sóc và hỗ trợ điều trị đúng cách, bệnh có thể tự khỏi sau 1 tuần và miễn dịch bền vững.

Nguyên nhân gây bệnh quai bị ở trẻ em
Quai bị ở trẻ em gây ra bởi virus quai bị (Mumps virus) thuộc họ Paramyxoviridae. Virus quai bị thường lây truyền qua đường hô hấp, khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với giọt bắn từ người bệnh khi ho, hắt hơi hoặc nói chuyện. Ngoài ra, virus quai bị cũng có thể lây truyền thông qua các tiếp xúc với các vật dụng hoặc bề mặt mà chúng bám lên bởi virus quai bị có khả năng tồn tại rất lâu ở môi trường bên ngoài cơ thể, ở nhiệt độ từ 15 - 20 độ C chúng có thể tồn tại 30 - 60 ngày và thậm chí là 1 - 2 năm ở nhiệt độ -25 đến -70 độ C.
Khi xâm nhập vào cơ thể trẻ qua đường hô hấp trên, virus quai bị nhân lên nhanh chóng trong biểu mô tuyến bài tiết trong nước bọt, gây viêm tuyến nước bọt ở mang tai. Virus quai bị cũng có thể bài tiết trong tuyến nước tiểu và tinh dịch, gây viêm tinh hoàn.

Những trẻ nào có nguy cơ mắc bệnh quai bị?
Bất cứ trẻ nào không có miễn dịch với quai bị đều có nguy cơ mắc bệnh quai bị, gồm có:
- Trẻ chưa tiêm ngừa vắc xin chứa thành phần quai bị hoặc tiêm vắc xin chưa đủ mũi có nguy cơ cao bị quai bị do cơ thể trẻ chưa được kích thích để sinh kháng thể đặc hiệu với virus quai bị, rất dễ bị virus xâm nhập, tấn công và gây bệnh quai bị.
- Trẻ bị suy giảm khả năng phản ứng của hệ thống miễn dịch bẩm sinh hoặc do bị mắc các bệnh suy giảm miễn dịch, đang trong quá trình dùng thuốc hoặc tiếp nhận những phương pháp điều trị có đặc tính ức chế miễn dịch,... khiến hệ miễn dịch của trẻ bị suy yếu, không đủ khả năng chống lại sự tấn công của virus, dẫn đến mắc bệnh quai bị.
- Những trẻ đi học trong môi trường đông đúc với tình hình dịch tễ quai bị tại trường học và địa phương không được kiểm soát tốt cũng có nguy cơ rất cao lây nhiễm quai bị.
Bệnh quai bị ở trẻ có phổ biến không?
KHÔNG! Bệnh quai bị đặc biệt hiếm gặp ở trẻ em, nhất là trẻ em dưới 3 tuổi. Bệnh cũng hiếm gặp ở người lớn trên 40 tuổi (1) và phổ biến hơn cả là ở nhóm thanh niên chưa từng mắc bệnh quai bị trước đó và chưa tiêm chủng vắc xin có chứa thành phần quai bị.
Bệnh quai bị có khả năng lây lan nhanh chóng trong cộng đồng qua đường hô hấp, là tác nhân gây ra vô số ca mắc bệnh trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, theo kết quả thống kê của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, trong giai đoạn 1991 - 1996, mỗi năm có khoảng 9.579 trường hợp mắc bệnh quai bị. Sang giai đoạn 1996 - 2000, dịch quai bị có xu hướng gia tăng một cách đáng kể, số ca mắc trung bình mỗi năm tăng gấp đôi so với giai đoạn trước, khoảng 21.086 trường hợp. Đến giai đoạn 2000 - 2006, số ca mắc quai bị trung bình mỗi năm vẫn không có dấu hiệu thuyên giảm, khoảng 24.001 trường hợp/năm. (2)

Triệu chứng bệnh quai bị ở trẻ nhỏ
Trên thực tế, có nhiều trẻ khi mắc quai bị sẽ không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào hoặc có triệu chứng nhưng rất nhẹ, khó có thể nhận biết hoặc phân biệt với các bệnh lý khác nhưng hoàn toàn vẫn có khả năng lây nhiễm cho những người khỏe mạnh khác khi có tiếp xúc gần.
Hầu hết các trường hợp trẻ mắc quai bị vẫn thường biểu hiện những triệu chứng điển hình qua các giai đoạn như sau:
Dấu hiệu quai bị ở trẻ giai đoạn đầu
Ở giai đoạn đầu, quai bị ủ bệnh từ 12 - 24 ngày và thường không gây ra bất cứ biểu hiện bất thường nào. Tuy nhiên, đây là giai đoạn dễ lây quai bị nhất, rất dễ bùng phát thành ổ dịch trong trường học hoặc trong gia đình.
Biểu hiện quai bị ở trẻ trong 24h sau khi xuất hiện triệu chứng
Sau khi giai đoạn ủ bệnh kết thúc, các biểu hiện đầu tiên của bệnh bắt đầu khởi phát, trong 24h đầu, trẻ thường xuất hiện những triệu chứng như:
- Mệt mỏi, nhức đầu, chán ăn, đau bụng, đau răng, khó nuốt, khó nhai;
- Sốt nhẹ khoảng 38 độ C, cảm giác ớn lạnh, xuất hiện dấu hiệu sợ gió;
- Đau nhức xương khớp và các cơ;
- Đau họng và đau tại 3 điểm Rillet Barthez (mõm chủm - khớp thái dương hàm - góc dưới xương hàm);
- Cảm thấy nhức góc hàm và xuất hiện hạch trước tai;
- Lỗ Stenon sưng đỏ, có khi có giả mạc;
Triệu chứng quai bị ở bé giai đoạn sau
Ở giai đoạn sau, quai bị ở trẻ có thể biểu hiện thông qua các triệu chứng lâm sàng điển hình hơn và diễn biến ở mức độ nghiêm trọng hơn như:
- Một bên tuyến mang tai bắt đầu sưng tấy, đỏ, nóng, căng bóng, to dần và đau nhức, tình trạng này có thể lây lan qua bên tuyến mang tai còn lại, có thể làm mất rãnh trước và sau tai, khiến mặt trẻ bị biến dạng, phình to ra, cổ bành, cằm xệ.
- Tuyến nước bọt mang tai bị sưng, khi tác dụng lực vào có cảm giác đàn hồi nhẹ.
- Khi trẻ há miệng, nói chuyện, hắt hơi, ho hay nuốt thức ăn, trẻ sẽ cảm thấy đau nhức răng, lợi, hai bên má, cơn đau có thể âm ỉ và lan rộng ra hai bên tai và dưới họng khiến trẻ chán ăn, biếng ăn, mệt mỏi và khó chịu.
- Mặc dù rất hiếm nhưng tình trạng viêm tinh hoàn vẫn có thể xảy ra ở trẻ sau tình trạng viêm tuyến nước bọt ở mang tai 5 - 10 ngày và gây ra triệu chứng sốt cao trở lại và hết sốt sau 4 - 5 ngày, rét run, cảm giác ớn lạnh, nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa, đau nhức tinh hoàn, tinh hoàn sưng to gấp 3 - 4 lần bình thường, da bìu đỏ, mào tinh sưng to. Sau khi khỏi bệnh, bên tinh hoàn bị ảnh hưởng sẽ bị teo, nếu teo cả 2 bên tinh hoàn, có thể gây vô sinh.
- Đối với những trường hợp bệnh quai bị ở trẻ diễn tiến nặng, có thể gây rối loạn ý thức, co giật, cứng cổ, cấm khẩu, liệt, rối loạn hành vi tác phong, tăng trương lực cơ,...
Các triệu chứng này từ khi khởi phát đến khi thuyên giảm dần và biến mất có thể mất khoảng 1 tuần và cơ thể trẻ hồi phục lại hoàn toàn sau khoảng 10 ngày.
Chẩn đoán quai bị ở trẻ em
Bệnh quai bị ở trẻ em có thể được chẩn đoán thông qua các phương pháp sau:
Dựa trên yếu tố dịch tế
Có thể xác định trẻ mắc bệnh quai bị nếu trẻ đã từng tiếp xúc với người mắc bệnh quai bị trước đây và trẻ chưa từng mắc bệnh quai bị, chưa được chủng ngừa hoặc chưa hoàn thành phác đồ chủng ngừa vắc xin chứa thành phần quai bị.
Dựa trên các triệu chứng lâm sàng điển hình
Các bác sĩ chuyên khoa có thể xác định rằng trẻ đang mắc bệnh quai bị khi phát hiện triệu chứng sốt, viêm và sưng to tuyến nước bọt ở mang tai hoặc viêm nhiễm các tuyến khác như tinh hoàn, buồng trứng, tuyến tụy, hệ thần kinh trung ương,...
Dựa trên phương pháp xác định cận lâm sàng
Khi 2 phương pháp trên không đáp ứng, các chuyên gia có thể đề xuất thực hiện các phương pháp cận lâm sàng như: xét nghiệm công thức máu, xét nghiệm Amylase máu, xét nghiệm Lipase máu, xét nghiệm dịch não tủy hoặc các xét nghiệm chuyên sâu hơn như xét nghiệm huyết thanh học và siêu vi học, xét nghiệm phân học sinh tử PCR.
Phương pháp chẩn đoán phân biệt
Bệnh quai bị thường bị nhầm lẫn với các bệnh lý viêm tuyến mang tai/ tinh hoàn/ viêm não, viêm màng não khác do vi khuẩn. Do đó, các bác sĩ chuyên khoa có thể thực hiện các phương pháp xét nghiệm công thức máu, PCR, siêu âm, chụp X-Quang,... để chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý như:
- Viêm tuyến mang tai do vi khuẩn;
- Tắc ống dẫn tuyến do sởi;
- Viêm do các virus khác như parainfluenza, influenza,...;
- Viêm hạch góc hàm dưới;
- Viêm tuyến tiền liệt, mào tinh trong bệnh lậu;
- Lao mào tinh hoàn và tinh hoàn;
- Viêm não – màng não do vi khuẩn;
- Viêm não, viêm màng não do lao.

Các biến chứng quai bị ở trẻ nhỏ
Trong trường hợp bệnh quai bị ở trẻ diễn tiến nghiêm trọng hoặc trẻ không được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và chăm sóc đúng cách, nguy cơ biến chứng nguy hiểm như:
Tổn thương thần kinh
Biến chứng này diễn ra khi virus quai bị tấn công vào hệ thần kinh trung ương, làm tổn thương và rối loạn chức năng thần kinh, gây ra:
- Viêm não, viêm màng não: Thường xuất hiện sau 3 - 10 ngày khi viêm tuyến nước bọt ở mang tai xuất hiện;
- Tổn thương thần kinh sọ não: khoảng 4,4% trường hợp gây điếc thoáng qua và 1/20.000 trường hợp gây điếc vĩnh viễn;
- Các biểu hiện thần kinh hiếm gặp khác: liệt mặt, thất điều tiểu não (là tình trạng thoái hóa thần kinh), mù lòa vĩnh viễn, viêm nhiễm dây thần kinh số VIII (là dây thần kinh tiền đình), hội chứng Guillain Barre (hội chứng gây rối loạn nghiêm trọng các chức năng thần kinh), phù não, viêm tủy cắt ngang,... Những biến chứng này thường rất hiếm gặp, chỉ khoảng 1% các trường hợp mắc quai bị.
Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn ở bé trai
Gây ra tình trạng sưng to, đau nhức tinh hoàn và có khoảng 20 - 30% trường hợp viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn bị teo tinh hoàn sau 2 - 4 tháng mắc. Biến chứng này thường gây sưng đau và teo một bên tinh hoàn, hiếm khi gây vô sinh. Tuy nhiên, trong trường hợp hai bên tinh hoàn bị teo, nguy cơ cao vô sinh.
Viêm buồng trứng ở bé gái
Tình trạng này khá phổ biến, có khoảng 7% trường hợp nữ giới mắc quai bị tiến triển viêm buồng trứng, nhiều nhất ở lứa tuổi trẻ em đang dậy thì. Biến chứng viêm buồng trứng gây sốt cao, đau nhức, khó chịu âm ỉ ở vùng chậu, hiếm khi gây vô sinh.
Viêm tụy cấp
Hiếm gặp, thường xuất hiện ở người lớn với tỷ lệ khoảng 3 - 7%, xuất hiện sau 4 - 10 ngày khi viêm tuyến nước bọt mang tai xuất hiện. Biến chứng viêm tụy cấp gây sốt cao trở lại, đau thượng vị cấp ở vùng từ mũi ức (phần cuối của xương ức) đến rốn, buồn nôn, nôn mửa nhiều, tiêu chảy, chán ăn, thậm chí trụy mạch.
Viêm vú
Rất hiếm gặp ở trẻ em, thường gặp ở 31% phụ nữ trên 15 tuổi.

Điều trị bệnh quai bị cho trẻ em
Hiện, vẫn chưa có phương pháp điều trị quai bị đặc hiệu, hầu hết các phương pháp hỗ trợ điều trị đều tập trung vào hạ sốt, giảm đau, đảm bảo dinh dưỡng và nghỉ ngơi.
- Đối với trẻ bị viêm tuyến nước bọt ở mang tai: Phụ huynh cần chườm nóng vùng hàm bị sưng đau, kết hợp dùng thuốc giảm đau, hạ sốt (Paracetamol, Aspirin,...) hoặc thuốc an thần theo chỉ định của bác sĩ để giảm đau nhức. Bên cạnh đó, cần vệ sinh hầu họng sạch sẽ đều đặn, nhất là sau khi ăn xong bằng dung dịch axit boric 5% hoặc nước muối 0,9%.
- Đối với trẻ bị viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn: Dùng corticoid (prednisolon, dexamethason,...) với liều lượng 25 - 30mg/ngày trong 5 - 7 ngày, kết hợp với dùng thuốc giảm đau paracetamol 10mg/kg/mỗi 8 giờ theo hướng dẫn của bác sĩ để giảm đau, chống viêm, hạn chế nguy cơ teo tinh hoàn.
- Khi trẻ có dấu hiệu viêm não - màng não: Có thể thực hiện chọc dò tủy sống để lấy dịch não tủy, có thể kết hợp sử dụng dung dịch glucose 30%, Manitol 20% hoặc các dịch ưu trương khác với liều lượng 250ml/ngày để giảm áp lực nội sọ và hạ đường huyết. Ngoài ra, để giảm tình trạng viêm nhiễm, có thể tiêm corticoid (prednisolon, dexamethason) theo đường tĩnh mạch 25 - 30mg/ngày. Đồng thời, chú ý trợ ti, cân bằng điện giải và sử dụng kháng sinh hợp lý khi thấy trẻ có dấu hiệu bội nhiễm.
- Khi trẻ có dấu hiệu viêm tụy: Cần ưu tiên cho trẻ nghỉ ngơi, chườm nóng vùng thượng vị, cho trẻ em thức ăn lỏng, dễ nuốt, dùng thuốc giảm đau theo hướng dẫn của bác sĩ.
Chăm sóc trẻ mắc bệnh quai bị
- Trẻ cần được cách ly khoảng 2 tuần cho đến khi bệnh khỏi hẳn để ngăn ngừa nguy cơ lây truyền cho người khác.
- Xây dựng chế độ sinh dưỡng lành mạnh, đảm bảo cung cấp đầy đủ dưỡng chất cần thiết cho trẻ trong mỗi bữa ăn, ưu tiên chế biến thức ăn dễ tiêu hóa như cháo, bột, súp, canh… Đặc biệt chú ý bổ sung vitamin A và các khoáng chất có lợi để tăng cường đề kháng, hỗ trợ miễn dịch cho trẻ sớm vượt qua giai đoạn toàn phát và phục hồi.
- Uống thật nhiều nước để bổ sung chất điện giải, thúc đẩy hydrat hóa.
- Chú ý kiêng khem các loại thực phẩm chua, cay, nóng, đắng, mặn để tránh gây kích thích các tuyến nước bọt, gây sưng và viêm nhiễm nặng hơn.
- Chú ý nghỉ ngơi thật nhiều.
- Đối với bé trai bị viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn, cần nằm nghỉ ngơi nhiều hơn cho đến khi tinh hoàn hết sưng đau. Đồng thời, cần chú ý mặc quần lót để nâng đỡ tinh hoàn, tránh gây viêm nặng hơn và hạn chế hoàn toàn có hoạt động, vận động nặng trong vòng 3 - 6 tháng cho đến khi tình trạng viêm khỏi hẳn.
- Đều đặn thực hiện chườm nóng lên vùng bị sưng đau cho trẻ.

Phòng ngừa bệnh quai bị cho trẻ
Tạo miễn dịch chủ động với virus quai bị bằng vắc xin là phương pháp phòng ngừa bệnh quai bị hiệu quả và đơn giản nhất cho cả trẻ em và người lớn. Mọi lứa tuổi cần chủ động tiêm ngừa vắc xin đúng lịch, đủ liều theo khuyến cáo để sản sinh kháng thể chủ động, ngăn ngừa nguy cơ mắc bệnh quai bị trong tương lai.
Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC đang cung ứng đầy đủ 3 loại vắc xin phòng bệnh quai bị cho trẻ em và người lớn, số lượng lớn, chất lượng cao, vắc xin đang có sẵn tại hàng trăm trung tâm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc, gồm MMR II (Mỹ) MMR (Ấn Độ) và Priorix (Ý), đây đều là các loại vắc xin phối hợp có thành phần phòng bệnh quai bị được chứng minh tính an toàn và hiệu quả trên toàn thế giới.
Tất cả vắc xin tại hàng trăm trung tâm tiêm chủng VNVC trên toàn quốc đều được bảo quản trong hệ thống dây chuyền lạnh (Cold Chain) và hệ thống kho lạnh đạt chuẩn quốc tế quy mô lớn, cam kết bảo quản hàng triệu liều vắc xin trong điều kiện tối ưu, nhiệt độ được duy trì độ ổn định từ 2 - 8 độ C theo đúng yêu cầu của nhà sản xuất, đồng thời cam kết thực hiện và giám sát thực hiện quy trình tiêm chủng vắc xin an toàn nghiêm ngặt, đảm bảo hiệu quả ở mức cao nhất.
Lịch tiêm vắc xin phòng bệnh quai bị ở trẻ em
Tên vắc xin | Vắc xin 3 trong 1 MMR II / MMR | Vắc xin 3 trong 1 Priorix |
Nước sản xuất | Mỹ / Ấn Độ | Bỉ |
Đối tượng | Trẻ ≥ 12 tháng tuổi | Trẻ ≥ 9 tháng tuổi |
Lịch tiêm cơ bản | Vắc xin MMR-II cho trẻ từ 12 tháng tuổi – < 7 tuổi (chưa tiêm Sởi đơn hay MMR II) có lịch tiêm 2 mũi:
Vắc xin MMR-II cho trẻ từ 7 tuổi và người lớn có lịch tiêm 2 mũi:
Lịch tiêm khi có dịch sởi: Trẻ nhỏ từ 6 – 12 tháng tuổi. Các cơ quan y tế địa phương có thể khuyến cáo tiêm chủng vắc xin sởi cho trẻ từ 6 – 12 tháng tuổi trong các trường hợp có dịch. Với lịch tiêm này, trẻ nên tiêm mũi thứ 2 lúc 12 – 15 tháng tuổi và tái chủng lúc 4 – 6 tuổi. |
Đối với từ 9 đến < 12 tháng tuổi:
- Mũi 1: Lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi (từ lúc 9 tháng). - Mũi 2: 3 tháng sau mũi 1 - Khuyến cáo mũi 3: 3 năm sau mũi 2 hoặc lúc trẻ 4 - 6 tuổi. Đối với trẻ từ 12 tháng tuổi đến < 7 tuổi: - Mũi 1: Lần tiêm đầu tiên - Mũi 2: Khi trẻ 4 - 6 tuổi, cách mũi 1 ít nhất 1 tháng Đối với trẻ từ 7 tuổi và người lớn: - Mũi 1: Lần tiêm đầu tiên - Mũi 2: Cách mũi 1 ít nhất 1 tháng |
Ngoài ra, phụ huynh có thể kết hợp và hỗ trợ trẻ thực hiện các phương pháp phòng ngừa bệnh quai bị khác như:
- Tránh tiếp xúc với người bệnh;
- Giữ vệ sinh cá nhân và nhà cửa sạch sẽ, thoáng mát nhằm loại bỏ virus quai bị;
- Giúp trẻ xây dựng chế độ dinh dưỡng lành mạnh, cung cấp đầy đủ dưỡng chất, vitamin và khoáng chất có lợi trong khẩu phần ăn hàng ngày của trẻ;
- Giúp trẻ vận động, luyện tập thể dục thể thao nhẹ nhàng, đều đặn hàng ngày để thúc đẩy đề kháng, hỗ trợ miễn dịch tích cực.

Mặc dù bệnh quai bị ở trẻ em thường lành tính nhưng vẫn tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ biến chứng nặng, di chứng nghiêm trọng sau khi khỏi bệnh như điếc, mù lòa, liệt, rối loạn thần kinh,... và thậm chí là tử vong. Do đó, bố mẹ tuyệt đối không được chủ quan, cần đưa trẻ đến ngay các cơ sở y tế uy tín gần nhất để được các bác sĩ chuyên khoa thăm khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời, đúng cách, giúp trẻ mau chóng hồi phục và đề phòng biến chứng.



- Mumps in Children. (n.d.). Boston Children’s Hospital. https://www.childrenshospital.org/conditions/mumps
- Nghiên cứu dịch tễ huyết thanh học bệnh quai bị và đáp ứng tạo kháng thể, phản ứng không mong muốn của vắc-xin quai bị chủng LENINGRAD-3. (n.d.). dulieu.itrithuc.vn. https://dulieu.itrithuc.vn/media/dataset/2020_08/la10.0327.3.pdf