30+ bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi và cách phòng ngừa

14:21 16/07/2024

Quản lý Y khoa Vùng 1 - Hồ Chí Minh
Hệ thống tiêm chủng VNVC
Những bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi là gì? Làm sao để phòng ngừa hiệu quả? Bài viết dưới đây sẽ liệt kê chi tiết 30+ bệnh lý thường gặp và cách phòng ngừa hiệu quả mà bố mẹ có thể tham khảo.
Trẻ em là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương do chức năng của hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện, sức đề kháng còn non nớt, chưa đủ khả năng bảo vệ trẻ chống lại các tác nhân gây bệnh, khiến trẻ dễ mắc bệnh. Đặc biệt, trẻ càng nhỏ, khi mắc bệnh càng nặng, nhất là nhóm trẻ em dưới 5 tuổi, khi mắc bệnh trẻ dễ biến chứng nguy hiểm và di chứng kéo dài, thậm chí đe dọa đến tính mạng.
| BS Trần Huỳnh Tấn - Quản lý Y khoa vùng 1 Hồ Chí Minh, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho biết: “Với cơ thể nhỏ bé, sức đề kháng với bệnh tật non nớt, trẻ em dưới 5 tuổi luôn phải đối mặt với nguy cơ lây nhiễm và mắc nhiều loại bệnh khác nhau, nhất là các bệnh truyền nhiễm khi trẻ dễ lây từ bố mẹ, người thân, bạn bè, thầy cô... Rất may mắn, hiện nay đã có gần 50 bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đã có thể phòng ngừa bằng vắc xin cho cả trẻ em và người lớn, cung cấp khả năng bảo vệ trẻ chống lại bệnh tật ngay từ lọt lòng cho đến khi trưởng thành và già đi. Chính vì thế, bố mẹ hãy giúp trẻ tiêm ngừa đầy đủ, đúng lịch các loại vắc xin quan trọng theo từng độ tuổi để trẻ được phát triển khỏe mạnh, có lợi thế về sức khỏe thể chất và trí tuệ trong tương lai.” | 

Tầm quan trọng của phòng ngừa và điều trị bệnh ở trẻ dưới 5 tuổi
Trẻ em dưới 5 tuổi có hệ thống miễn dịch chưa hoàn chỉnh, khiến sự đề kháng với bệnh tật yếu hơn. Bên cạnh đó, miễn dịch thụ động nhận được từ mẹ trong thai kỳ và trong giai đoạn sơ sinh dần suy giảm và “cạn kiệt” khoảng 3 - 6 tháng sau sinh, khiến trẻ có nguy cơ rất cao mắc nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Năm 2020, ước tính có khoảng 5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong, chủ yếu là do những nguyên nhân có thể phòng ngừa được bằng vắc xin. Trong khoảng một nửa số ca tử vong đó, có đến 2,4 triệu ca xảy ra ở trẻ sơ sinh. Chính vì thế, chủ động tiêm vắc xin phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm cho trẻ trong những năm đầu đời chính là cung cấp cho trẻ lớp “bảo hiểm sinh học", trao cho trẻ cơ hội sống khỏe mạnh, hạnh phúc và thành công.

Các bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi cha mẹ nên để ý
Trẻ em dưới 5 tuổi, bên cạnh hệ miễn dịch non nớt, tất cả các hệ thống cơ quan trên khắp cơ thể của trẻ từ hệ thống thần kinh, hô hấp, tiêu hóa đến hệ da và niêm mạc cũng chưa phát triển hoàn chỉnh. Do đó, trẻ em dưới 5 tuổi rất dễ lây nhiễm các tác nhân gây bệnh, mắc bệnh, thậm chí mắc bệnh nặng, dễ biến chứng, di chứng, phải nhập viện điều trị kéo dài và nguy cơ đe dọa đến tính mạng của trẻ là rất cao. Dưới đây là các bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi mà cha mẹ cần phải biết:
1. Các bệnh trẻ em dưới 5 tuổi thường gặp ở hệ hô hấp
Cảm lạnh
Cảm lạnh là bệnh lý truyền nhiễm do virus tấn công và gây nhiễm trùng đường hô hấp trên (mũi, họng và xoang). Hiện nay, các nhà khoa học đã tìm ra hơn 200 loại virus khác nhau có thể gây ra bệnh cảm lạnh ở trẻ em và người lớn nhưng phổ biến nhất là do Rhinovirus. Cảm lạnh ở trẻ em thường biểu hiện thông qua các triệu chứng như nghẹt mũi, chảy nước mũi, ngứa họng, đau họng, hắt hơi.
Nhiều trường hợp chủ quan, xem nhẹ sự nguy hiểm của cảm lạnh, trẻ không được điều trị bệnh kịp thời và đúng cách, nguy cơ tiến triển nặng, gây viêm tai, viêm xoang, thậm chí viêm tiểu phế quản, viêm phổi cực kỳ nguy hiểm.
Trẻ em, nhất là trẻ nhỏ dưới 5 tuổi dễ mắc cảm lạnh hơn trẻ lớn và người lớn vì hệ miễn dịch của trẻ chưa đủ trưởng thành trong khi có đến hơn 200 loại virus gây cảm lạnh khác nhau. Theo thống kê, ở giai đoạn 2 năm đầu đời, một năm trẻ có thể bị cảm lạnh từ 8 - 10 lần. (1)
Không có phương pháp điều trị cảm lạnh đặc hiệu bởi cảm lạnh thường tự khỏi nếu người bệnh được chăm sóc đúng cách. Khi phát hiện trẻ có dấu hiệu cảm lạnh, phụ huynh cần cho trẻ uống thật nhiều nước, chia nhỏ thành nhiều lần uống trong một ngày để gia tăng khả năng hấp thụ nước cho cơ thể, tránh gây mất nước.
Đồng thời, bố mẹ cần cho bé được nghỉ ngơi nhiều hơn ở nơi thoáng mát, sạch sẽ, kín gió, tránh cho trẻ nằm trước gió quạt hoặc gió điều hòa nhằm giúp trẻ hồi phục năng lượng đã mất khi cơ thể “chiến đấu” với các tác nhân gây bệnh cảm lạnh và tăng cường đề kháng.
Bên cạnh đó, nếu bố mẹ để ý thấy tình trạng cảm lạnh của trẻ không cải thiện, trẻ bắt đầu sốt cao khó hạ, ớn lạnh, run rẩy, ho khan, nôn mửa, suy hô hấp, cơ thể suy nhược… cần đưa trẻ đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được thăm khám, chẩn đoán và điều trị hợp lý.
Cúm
Cúm là bệnh “siêu lây nhiễm" thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi. Một người mắc cúm có thể lây lan vô cùng nhanh chóng cho những đối tượng tiếp xúc gần, có thể khiến cho cả trường học, công ty, nhà máy, xí nghiệp trở thành ổ bệnh. Ngay cả những thanh thiếu niên, người trưởng thành khỏe mạnh cũng có thể là “nạn nhân” của cúm.
Cúm đặc biệt nguy hiểm ở trẻ em dưới 5 tuổi với tỷ lệ tử vong rất cao nếu mắc phải, thậm chí do dù có phát hiện và điều trị từ sớm, cần tiềm ẩn nguy cơ biến chứng viêm phổi, viêm tai, viêm phế quản, viêm não, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim… Có thể trẻ không tử vong do cúm nhưng hoàn toàn có thể tử vong do các biến chứng của cúm gây ra.
Cúm là bệnh truyền nhiễm được ví như “sói đội lốt cừu” khi ở giai đoạn khởi phát cúm thường dễ bị nhầm lẫn với các bệnh cảm lạnh thông thường như sốt, cảm giác ớn lạnh, chóng mặt, đau đầu, mệt mỏi toàn thân, cảm giác yếu ớt, đau nhức cơ bắp, ho, buồn nôn, nôn mửa. Ở trẻ em, cúm thường diễn biến nặng nề hơn.
Khi trẻ bị cúm, phụ huynh cần để ý số lượng nước tiểu và tần suất tiểu tiện của trẻ để nắm bắt và theo dõi tình trạng mất nước. Đồng thời, cho trẻ uống nước (nước ép, sữa mẹ, sữa công thức…) và nghỉ ngơi nhiều, bổ sung dinh dưỡng, chia nhỏ lượng thức ăn trong ngày thành nhiều bữa nhằm giúp cơ thể gia tăng khả năng dung nạp dưỡng chất.
Trong sinh hoạt, cần tạo môi trường sinh hoạt có độ ẩm vừa phải nhằm giảm tình trạng nghẹt mũi, vệ sinh mũi bằng nước muối pha loãng nhằm làm loãng đờm, giảm tắc nghẽn đường thở. Khi tắm cho trẻ bị cúm, cần tắm nước ấm vừa phải, tắm nhanh, không cho trẻ ngâm bồn. Cho trẻ mặc quần áo mỏng nhẹ, thoáng mát, rộng rãi, thấm hút mồ hôi tốt vào mùa hè, mùa đông cần mặc thoải mái nhưng đảm bảo ấm áp.
Để cải thiện tình trạng đau nhức cơ, sốt, đau đầu, đau họng, có thể cho trẻ uống sữa bột có chứa Acetaminophen (Tylenol) hoặc ibuprofen (Advil, Motrin). Tuyệt đối không cho trẻ sử dụng các sản phẩm có chứa Aspirin, không sử dụng các loại thuốc không kê đơn cho trẻ dưới 6 tháng tuổi khi chưa có sự đồng ý và tư vấn liều dùng cho trẻ.

Viêm mũi dị ứng
Viêm mũi dị ứng là tình trạng phản ứng xảy ra khi trẻ hít phải những thứ mà trẻ bị dị ứng như mạt bụi, vẩy, bột, lông động vật hoặc phấn hoa. Viêm mũi dị ứng thường là bệnh lý do di truyền, gặp ở 20% trẻ em và có đến 75% trẻ em mắc bệnh hen suyễn cũng sẽ bị viêm mũi dị ứng. (2)
Mỗi trẻ bị viêm mũi dị ứng sẽ biểu hiện thông qua các triệu chứng khác nhau. Tuy nhiên, bố mẹ có thể nhận biết tình trạng viêm mũi dị ứng thông qua các triệu chứng phổ biến như: hắt hơi nhiều và liên tục, nghẹt mũi, sổ mũi, ngứa mũi, ngứa họng, ngứa mắt và ngừa tai, có chảy máu cam. Đối với những trẻ bị viêm mũi dị ứng lâu năm, có thể có nhiễm trùng tai, ngáy khi ngủ, có xu hướng thở bằng miệng, cơ thể suy nhược, mệt mỏi…
Khi chẳng may trẻ bị viêm mũi dị ứng, phụ huynh cần tránh cho trẻ tiếp xúc với các chất gây dị ứng hoặc các vật mà trẻ bị dị ứng như bụi, phấn hóa, lông động vật… Bên cạnh đó, phụ huynh cũng có thể tham khảo ý kiến của các bác sĩ chuyên khoa về việc cho trẻ viêm mũi dị ứng sử dụng các loại thuốc xịt mũi chống viêm, thuốc xịt mũi có chứa Corticoid để giảm sưng mũi, giảm nhạy cảm ở mũi hoặc thuốc thông mũi để giúp cho các mạch máu trong mũi co lại nhỏ hơn, giúp giảm nghẹt mũi.
Ngoài ra, các bác sĩ chuyên khoa cũng có thể chỉ định trẻ bị viêm mũi dị ứng sử dụng các loại thuốc kháng histamin không kê đơn (Benadryl, Atarax…) hoặc thuốc kháng histamin có kê đơn như Cetirizine (Zyrtec), Loratadin (Claritin) hoặc Fexofenadine (Allegra) để ức chế quá trình giải phóng histamin, giảm ngứa, hắt hơi, sổ mũi… do dị ứng.
Viêm phế quản
Viêm phế quản là tình trạng viêm nhiễm các ống thở lớn (phế quản) trong phổi, thường do nhiễm virus. Viêm phế quản cũng có thể do vi khuẩn hoặc bụi bẩn, chất gây dị ứng, khói lửa hoặc khói thuốc lá gây ra. Ở trẻ em, nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm phế quản cấp tính là các loại virus tấn công hệ hô hấp. Bệnh có thể phát triển sau khi trẻ bị cảm lạnh hoặc nhiễm virus khác ở đường hô hấp trên (mũi, miệng hoặc cổ họng).
Viêm phế quản ở trẻ em dưới 5 tuổi thường có triệu chứng ho khan, ho có chất nhầy trong họng, buồn nôn, nôn mửa, chảy nước mũi, tức hoặc đau ngực, toàn thân khó chịu, mệt mỏi, ớn lạnh, sốt nhẹ, đau lưng, đau cơ, thở khò khè, đau họng… Những triệu chứng này thường kéo dài từ 7 - 14 ngày. Nếu không được chăm sóc đúng cách và điều trị kịp thời, nguy cơ rất cao bệnh tình sẽ diễn tiến thành viêm phế quản mạn tính với nhiều nguy cơ đe dọa đến sức khỏe của trẻ, nguy hiểm nhất là biến chứng viêm phổi. (3)
Đối với trẻ bị viêm phế quản, bố mẹ không nên tự ý sử dụng kháng sinh để điều trị vì có thể kháng sinh không có tác dụng chữa trị mà còn gây ra các phản ứng bất lợi cho sức khỏe của trẻ do hầu hết các trường hợp viêm phế quản đều do virus gây ra.
Thay vào đó, phụ huynh cần cho trẻ nghỉ ngơi nhiều hơn, uống nước nhiều để bù dịch, giữ độ ẩm thích hợp trong không gian sinh hoạt của trẻ, có thể sử dụng Acetaminophen hoặc Ibuprofen khi trẻ sốt (tuyệt đối không sử dụng Aspirin), sử dụng thuốc ho khi trẻ ho khan, ho có đờm (chú ý chỉ nên sử dụng cho trẻ trên 4 tuổi)...
Chú ý, khi tình trạng của trẻ không đáp ứng với các phương pháp chăm sóc và điều trị trên, trẻ vẫn sốt, thậm chí sốt cao hơn, cảm thấy khó thở, không thể thở được, cần ngay lập tức đưa trẻ đến các cơ sở y tế hoặc bệnh viện gần nhất để trẻ được thăm khám, chẩn đoán và xử trí kịp thời.

Viêm thanh quản
Viêm thanh quản là tình trạng dây thanh âm trong cổ họng bị viêm nhiễm, gây ra tình trạng kích thích hoặc sưng tấy thanh quản. Bệnh gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như một số loại virus gây nhiễm trùng thanh quản, thanh quản tiếp xúc với khói bụi, tình trạng trào ngược (axit từ dạ dày trào ngược lên cổ họng, nồng độ kiềm của axit khiến dây thanh quản bị tổn thương), ho/la hét/ hắng giọng nhiều lần và liên tục.
Tình trạng viêm thanh quản thường xuất hiện đột ngột, không có dấu hiệu báo trước và các triệu chứng của bệnh thường diễn biến nặng hơn trong 3 ngày đầu tiên kể từ ngày triệu chứng đầu tiên khởi phát. Các triệu chứng viêm thanh quản thường gặp gồm có: khàn giọng, đôi khi mất giọng, thanh quản kích thích, ho nhiều, đau rát họng, ở trẻ em có thể gặp tình trạng sốt cao từ 39 độ C, bỏ bú, ăn kém, khó thở…
Bệnh viêm thanh quản thông thường không cần điều trị mà tự biến mất trong vòng 1 - 2 tuần nếu người bệnh được chăm sóc đúng cách, như: Hạn chế cho trẻ nói, khóc, la hét, cho trẻ uống nhiều nước và chia nhỏ thành nhiều lần trong một ngày để làm dịu thanh quản, duy trì độ ẩm không khí ở mức hợp lý và giữ cho không gian sinh hoạt của trẻ ấm áp, thoáng mát, hướng dẫn trẻ cách súc miệng bằng nước muối ấm và duy trì thói quen súc miệng nhiều lần trong ngày để kháng khuẩn vòm họng, loại bỏ bụi bẩn, virus, vi khuẩn… (4)
Viêm phổi
Viêm phổi là bệnh lý nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính ở phổi, gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do vi khuẩn (vi khuẩn phế cầu, vi khuẩn não mô cầu, vi khuẩn ho gà, vi khuẩn lao, vi khuẩn HiB…), virus ( virus cúm, virus sởi…), vi nấm, vi trùng ở môi trường bên ngoài. Viêm phổi bản chất đã rất nguy hiểm nhưng đáng lo ngại hơn khi viêm phổi biến chứng nhiễm trùng huyết, suy hô hấp, tràn dịch màng phổi, áp xe phổi… đặc biệt nguy hiểm với đối tượng trẻ em.
Khi chẳng may trẻ bị viêm phổi, bố mẹ cần cho trẻ nghỉ ngơi nhiều hơn, hạn chế để trẻ giao tiếp, cho trẻ uống nhiều chất lỏng, đặc biệt là nước lọc nhằm làm loãng chất nhầy trong phổi, đảm bảo môi trường sống và sinh hoạt sạch sẽ, thoáng mát cho trẻ, đồng thời cho trẻ sử dụng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ.
Viêm phổi có thể điều trị bằng nhiều phương pháp khác nhau, việc lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào loại viêm phổi. Đối với các trường hợp viêm phổi do vi khuẩn gây ra, có thể được điều trị bằng kháng sinh, trong nhiều trường hợp phải điều trị bằng kháng sinh liều cao kéo dài với chi phí vô cùng đắt đỏ. Đối với các trường hợp viêm phổi do virus hoặc vi khuẩn Mycobacterium (vi khuẩn gây bệnh lao), trẻ bị viêm phổi cần được tiếp nhận các phương pháp điều trị khác, can thiệp chuyên sâu hơn tại bệnh viện. (5)

Viêm xoang
Viêm xoang ở trẻ em là tình trạng nhiễm trùng xoang do dị ứng hoặc do các tác nhân gây bệnh làm tổn thương xoang như virus, vi khuẩn… Viêm xoang rất thường gặp ở trẻ em, đặc biệt phổ biến ở giai đoạn đầu đời. Triệu chứng viêm xoang ở trẻ em với người lớn là khác nhau. Ở trẻ em, viêm xoang gây hôi miệng, khiến trẻ ho, sốt nhẹ, cáu kỉnh, khó chịu, mệt nhoài, uể oải, sưng tấy quanh mắt, chảy nước mũi, nước mũi đặc, có màu vàng xanh… (6)
Khi trẻ bị viêm xoang, phụ huynh cần đưa trẻ đến bệnh viện, cơ sở y tế hoặc phòng khám chuyên khoa tai mũi họng để được bác sĩ thăm khám, chẩn đoán và đưa ra các phương pháp xử trí phù hợp. Đối với trẻ bị viêm xoang cấp tính do vi khuẩn, bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng có thể chỉ định áp dụng liệu pháp kháng sinh hoặc sử dụng thuốc xịt mũi steroid, nước muối nhỏ mũi… nhằm cải thiện tình trạng nghẹt mũi.
Đối với trẻ bị viêm xoang mạn tính (tình trạng viêm xoang kéo dài trong ít nhất 12 tuần, có tăng áp lực xoang), bác sĩ chuyên khoa có thể chỉ định điều trị nội khoa hoặc tiến hành phẫu thuật xoang thích hợp.
Hen suyễn
Hen suyễn là bệnh về phổi mạn tính, ảnh hưởng đến đường thở, gây rối loạn khả năng hô hấp của người bệnh, gây ra do di truyền và các điều kiện môi trường bất lợi như khói thuốc, mạt bụi, ô nhiễm không khí, dị ứng với gián, nấm mốc, lông động vật…
Khi trẻ bị hen suyễn, đường thở của trẻ có thể bị viêm và thu hẹp, gây khó thở, thở khò khè, tức ngực, ho dai dẳng, đặc biệt là vào ban đêm, khó thở sâu... Hen suyễn điển hình bởi các cơn hen bộc phát, biến chứng xẹp phổi, khí phế thũng, tâm phế mạn tính, suy hô hấp mạn tính, biến dạng lồng ngực, tràn khí màng phổi, gây tắc đường thở và tử vong.
Vào năm 2019, có khoảng 262 triệu người bị hen suyễn, trong đó 455.000 người tử vong. Chỉ tính riêng Việt Nam có hơn 4 triệu người bị mắc hen suyễn với tỷ lệ mắc ở trẻ em có thể lên đến 8 - 10%, bệnh có tỷ lệ tử vong cực kỳ cao, chỉ đứng sau ung thư. (7)
Để điều trị bệnh hen suyễn cho trẻ dưới 5 tuổi, bố mẹ có thể tham khảo ý kiến của các bác sĩ chuyên khoa về việc sử dụng thuốc corticoid dạng phun hít nhằm kiểm soát bệnh và hướng dẫn cách sử dụng và thời điểm mà trẻ cần sử dụng để tránh các cơn hen kịch phát đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng của trẻ.

Ho gà
Ho gà là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn ho gà gây ra, chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Ho gà thường khởi phát với các triệu chứng giống như cảm lạnh thông thường, bao gồm sổ mũi, hắt hơi, ho hoặc sốt nhẹ. Sau 1 - 2 tuần kể từ khi triệu chứng đầu tiên xuất hiện, các cơn ho dữ dội bắt đầu, những cơn ho thường kết thúc bằng tiếng rít khi hít không khí vào. Ho gà có thể biến chứng viêm phổi nặng, khiến hệ hô hấp bị tổn thương nghiêm trọng và thậm chí tử vong.
Khi mắc ho gà, trẻ cũng thường cảm thấy khó thở, có thể ngừng thở, cảm thấy thiếu oxy, nhất là khi đang ho và mất nước. Chính vì thế, bố mẹ cần chú ý giữ cho không gian sinh hoạt của trẻ thông thoáng, mát mẻ để cải thiện quá trình trao đổi khí của trẻ trở nên dễ dàng hơn, động thời tăng lượng nước cần uống một trong ngày để bù nước, bù khoáng, cải thiện tình trạng mất nước, làm dịu các cơ quan hô hấp trên, hạn chế những cơn ho.
Bên cạnh việc chăm sóc, trẻ bị ho gà cũng cần được điều trị bằng kháng sinh càng sớm càng tốt sau khi phát hiện các triệu chứng đầu tiên. Tuy nhiên, khi sử dụng kháng sinh ở thời điểm muộn hơn, phương pháp điều trị này vẫn mang lại hiệu quả đáp ứng cao.
2. Những bệnh hệ tiêu hóa trẻ em dưới 5 tuổi thường mắc
Trào ngược dạ dày, thực quản
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là chứng rối loạn tiêu hóa mạn tính do các chất trong dạ dày trào ngược vào ống dẫn thức ăn (thực quản). Trào ngược dạ dày, thực quản rất thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi, nhất là trẻ sơ sinh khi hầu hết trẻ sơ sinh đều nôn trớ do trào ngược dạ dày, thực quản vài lần một ngày trong vòng 3 tháng đầu sau sinh. (8)
Mặc dù trào ngược dạ dày, thực quản thường không nguy hiểm nhưng đối với trẻ em, lượng dịch trào ngược trong dạ dày của trẻ có thể di chuyển lên ống dẫn thức ăn và tràn vào khí quản, có thể gây ra bệnh hen suyễn hoặc viêm phổi. Trong trường hợp trào ngược bị nôn trớ liên tục, có thể gây ra các tình trạng về tăng cân và thiếu hụt dinh dưỡng, theo thời gian, axit dạ dày trào ngược lên thực quản, đe dọa nguy cơ viêm thực quản, loét thực quản, gây đau và chảy máu thực quản, thực quản bị thu hẹp…
Khi trẻ gặp tình trạng trào ngược dạ dày, thực quản, bố mẹ cần chú ý: Đối với trẻ sơ sinh, cần bế bé ở tư thế thẳng đứng trong 30 phút sau khi bú, nếu sử dụng bình sữa, giữ núm vú luôn đầy sữa để bé không nuốt quá nhiều không khí khi ăn. Đối với trẻ em, bố mẹ cần theo dõi lượng thức ăn của trẻ, hạn chế thực phẩm không lành mạnh và đảm bảo bé ăn những phần nhỏ hơn, ăn bữa tối sớm, ít nhất 3 giờ trước khi đi ngủ….
Để điều trị chứng trào ngược dạ dày, thực quản, các bác sĩ chuyên khoa có thể kê đơn thuốc như thuốc chống axit và thuốc ức chế bơm proton giúp ức chế quá trình tạo ra axit, giảm triệu chứng trào ngược. Bác sĩ cũng có thể khuyến nghị bổ sung calo bằng cách thêm ngũ cốc vào sữa bột hoặc cung cấp thực phẩm chức năng. Trong trường hợp trẻ không tăng cân do nôn trớ thường xuyên, việc cho ăn bằng ống cũng có thể được các bác sĩ khuyến nghị. Nếu trường hợp nghiêm trọng, bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật để điều trị tình trạng trào ngược.
Tiêu chảy
Tiêu chảy là tình trạng đi ngoài phân lỏng, ra nước và đi tiêu thường xuyên hơn. Bệnh phổ biến hơn ở trẻ em, do hệ thống tiêu hóa, đường ruột bị nhiễm trùng bởi thực phẩm bị nhiễm khuẩn hoặc nước bị ô nhiễm, do đường ruột không dung nạp một số thực phẩm khó tiêu, dị ứng thực phẩm, phản ứng với thuốc, do viêm ruột hoặc các tác nhân gây bệnh đường ruột khác, chẳng hạn như virus Rota gây tiêu chảy cấp.
Khi trẻ gặp tình trạng tiêu chảy nhẹ không nôn, phụ huynh sẽ không cần thay đổi chế độ ăn, trẻ sơ sinh có thể tiếp tục cho con bú sữa mẹ, sữa công thức hoặc sữa bò.
Tuy nhiên, nếu trẻ có dấu hiệu chướng bụng sau khi uống sữa công thức hoặc sữa bò, cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để tái xây dựng một chế độ dinh dưỡng phù hợp hơn cho trẻ tiêu chảy. Nếu trẻ bị tiêu chảy nhẹ kèm nôn mửa, ngay lập tức bố mẹ cần dừng chế độ ăn thông thường, cung cấp dung dịch điện giải và khi tình trạng nôn mửa giảm, từ từ quay lại chế độ ăn bình thường.
Đối với trẻ bị tiêu chảy nặng, phụ huynh cần tìm kiếm sự hỗ trợ của bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa, đồng thời phối hợp theo dõi tần suất và dấu hiệu mất nước của trẻ, ngừng cho trẻ ăn để tập trung uống nước và trong trường hợp mất nước nghiêm trọng, trẻ có thể cần được truyền dịch qua tĩnh mạch.

Tiêu chảy cấp do Virus Rota
Tiêu chảy cấp do virus Rota là bệnh cấp tính do virus Rota (Rotavirus) gây nên. Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ với các triệu chứng sốt nhẹ, nôn, tiêu chảy. Trẻ có biểu hiện nôn trước khi xuất hiện tiêu chảy khoảng 6 - 12 giờ và có thể kéo dài 2 - 3 ngày. Trẻ thường nôn rất nhiều vào ngày đầu và giảm bớt khi bắt đầu tiêu chảy, phân lỏng toàn nước, có lúc màu xanh dưa cải, có thể có đờm, nhớt nhưng không có máu.
Đây là đặc điểm quan trọng để chẩn đoán phân biệt với tiêu chảy do vi khuẩn. Bệnh tiêu chảy cấp do Rotavirus có thể gây mất nước nghiêm trọng, teo tóp cơ thể, suy nhược sức khỏe và đe dọa đến tính mạng của trẻ.
Khi trẻ bị tiêu chảy cấp do Rotavirus, phụ huynh cần đưa trẻ đến các cơ sở để được bác sĩ thăm khám và điều trị. Sau đó, nếu trẻ bị tiêu chảy nhẹ, có thể chăm sóc tại nhà theo hướng dẫn của bác sĩ. Đặc biệt, bố mẹ cần lưu ý cho trẻ uống nhiều nước hơn bình thường, sử dụng nước đun sôi để nguội, nước canh rau, nước khoáng không ga hoặc Oresol theo hướng dẫn của bác sĩ.
Bố mẹ cần đảm bảo trẻ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng phù hợp theo lứa tuổi, tiếp tục cho trẻ bú mẹ và vệ sinh kỹ bình sữa nếu trẻ bú bình. Tránh sử dụng thuốc kháng sinh cầm tiêu chảy do có thể gây liệt ruột và không có tác dụng diệt virus.
Táo bón
Táo bón là một dạng rối loạn tiêu hóa khá phổ biến ở trẻ em. Bệnh khiến nhu động ruột không thường xuyên, khó khăn hoặc giảm tần suất đại tiện hoặc phân cứng, khô hoặc cảm giác tống phân không hết. Các nguyên nhân khiến trẻ bị táo bón bao gồm: tập đi vệ sinh sớm và thay đổi chế độ ăn uống đột ngột của trẻ, rối loạn chức năng của sàn chậu, rối loạn chế độ ăn, do tắc ruột, do sử dụng thuốc, u đại tràng…
May mắn thay, hầu hết các trường hợp táo bón ở trẻ em chỉ là tạm thời và không gây ra nhiều tình trạng nghiêm trọng, gây nguy hiểm đến tính mạng của trẻ. Khi trẻ bị táo bón, bố mẹ cần tích cực thay đổi chế độ ăn uống, khuyến khích trẻ ăn nhiều trái cây và rau quả giàu chất xơ, uống nhiều nước. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc nhuận tràng cũng có thể được áp dụng để điều trị táo bón sau khi được bác sĩ đồng ý và hướng dẫn sử dụng.
Bé bị nhiễm giun
Hầu hết các trường hợp nhiễm sẽ không gây ra bất kỳ triệu chứng nào cả. Nhưng một số trẻ có thể cảm thấy ngứa quanh hậu môn và/hoặc âm đạo, tình trạng ngứa ngáy này thường diễn biến nặng hơn vào ban đêm, trẻ cũng có thể cảm thấy bồn chồn, khó chịu vùng bụng, đau bụng, buồn nôn, ói mửa, thậm chí viêm ở cơ quan sinh dục…
Nhiễm giun ở trẻ em thường dễ điều trị và không nghiêm trọng. Bác sĩ có thể chỉ định phụ huynh cho trẻ uống thuốc chống ký sinh trùng, sau đó lặp lại liều thuốc sau 2 tuần để đảm bảo loại bỏ hoàn toàn giun. Nếu trẻ bị nhiễm giun, phụ huynh cũng nên sử dụng thuốc điều trị cho tất cả thành viên trong gia đình để ngăn ngừa lây lan. Đồng thời, bố mẹ hãy cho trẻ nghỉ học hoặc chăm sóc tại nhà để ngăn giun lây sang các trẻ khác trong thời gian điều trị.

3. Các bệnh về nhiễm trùng trẻ dưới 5 tuổi có thể mắc phải
Thủy đậu
Bệnh thủy đậu (hay còn gọi là trái rạ) do virus Varicella Zoster (VZV) gây ra, có thể lây truyền từ người sang người bằng tiếp xúc trực tiếp, qua đường không khí từ các giọt nhỏ dịch tiết đường hô hấp hoặc chất dịch của nốt phỏng. Bệnh cũng có thể lây gián tiếp qua tiếp xúc với các đồ vật bị nhiễm khuẩn. Thủy đậu có thể gây sốt, đau đầu, phát ban dạng phỏng nước, ngứa toàn thân.
Ban đầu phỏng nước nhỏ và chứa dịch trong, theo thời gian phỏng nước to dần và dịch trở nên đục, hóa mủ và đóng vảy. Phát ban, phỏng rộp do thủy đậu có thể mọc nhiều đợt khác nhau trên một vùng da nên kích cỡ và dạng ban khác nhau từ nốt sẩn, bọng nước trong, bọng nước đục cho đến nốt vảy tại một thời điểm.
Thủy đậu không phải là bệnh nhiễm trùng ngoài da thông thường mà có thể biến chứng nguy hiểm như viêm nhiễm nốt phỏng, nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm não, viêm gan, hội chứng Reye. Biến chứng muộn gồm hội chứng Guillain-Barré, bệnh zona với biến chứng đau “kinh điển” đau dây thần kinh sau zona. Tuy nhiên, bệnh thủy đậu hiện vẫn chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu.
Chính vì thế, nếu chẳng may trẻ mắc thủy đậu, bố mẹ cần đưa trẻ đến các cơ sở y tế để được thăm khám, chẩn đoán và kê đơn thuốc kháng virus để ức chế khả năng hoạt động của VZV và dùng thêm các loại thuốc giảm đau, hạ sốt như Paracetamol, ngoài ra có thể dùng thêm kháng sinh nếu có bội nhiễm vi trùng ở các bóng nước vỡ.
Khi chăm sóc trẻ bị thủy đậu, phụ huynh cần lưu ý không kiêng nước, kiêng gió, cần tắm rửa vệ sinh cơ thể cho trẻ sạch sẽ, giúp trẻ luôn mát mẻ, thoáng mát, hạn chế tích tụ mồ hôi, bụi bẩn lên vùng da bị thương tổn. Bố mẹ cũng nên khuyến khích trẻ uống nhiều nước hơn, tích cực bổ sung vitamin, khoáng chất có lợi nhằm tăng cường sức đề kháng chống lại sự tấn công của VZV và kiêng ăn những loại thực phẩm cay nóng, nhiều dầu mỡ, chiên rán, nhiều gia vị, thực phẩm đóng hộp, thức ăn nhanh hay chế biến sẵn…
Tay chân miệng
Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm do virus thuộc họ Enterovirus gây ra, thường ảnh hưởng đến trẻ em dưới 10 tuổi và thường gặp nhất là ở lứa tuổi dưới 5. Bệnh đặc trưng bởi sốt, mụn nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông và bên trong miệng, đau họng, sốt và chán ăn. Bệnh thường tự khỏi sau 7 - 10 ngày mà không cần điều trị nếu trẻ được chăm sóc tốt. Ngược lại, nếu trẻ không được chăm sóc đúng cách, tay chân miệng có thể gây biến chứng viêm não, viêm màng não, viêm cơ tim… ảnh hưởng nghiêm trọng để sức khỏe và tính mạng của trẻ.
Để điều trị tay chân miệng cho trẻ, phụ huynh cần tập trung vào việc giảm triệu chứng, cải thiện sức đề kháng để ức chế khả năng hoạt động của virus, đẩy nhanh thời gian mắc bệnh bằng cách: Cho trẻ uống nhiều nước hơn bình thường, chia thành nhiều lần uống trong một ngày, tránh cho trẻ ăn các loại thức ăn có tính axit. Phụ huynh cũng có thể tham khảo ý kiến của bác sĩ về việc sử dụng Paracetamol hoặc Ibuprofen để giảm đau.

Sởi
Sởi là một bệnh nhiễm virus do Morbillivirus gây ra, điển hình bởi tình trạng sốt và phát ban trên cơ thể. Bệnh sởi rất dễ lây lan, đặc biệt dễ dàng qua các giọt nhỏ khi ho và hắt hơi. Sau khi tiếp xúc với virus, có thể mất từ 10 - 12 ngày các triệu chứng mới xuất hiện. Bệnh sởi thường khởi phát với các triệu chứng giống cảm lạnh như sốt, ho, sổ mũi, đau hoặc đỏ mắt, mệt mỏi, suy kiệt hoặc hôn mê.
Vào ngày thứ 4 - 6 của bệnh có dấu hiệu phát ban dạng dát sẩn, kích thước nhỏ, mọc tuần tự từ sau tai rồi lan dần ra hai bên má, cổ, lan xuống ngực, bụng, tay, sau lưng, hông và chân. Sởi không chỉ gây ra các tình trạng viêm nhiễm, phát ban ngoài da mà có thể biến chứng viêm não, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm tai, viêm phổi và thậm chí tử vong.
Hầu hết trẻ mắc bệnh sởi có thể được điều trị tại nhà sau khi đã được các bác sĩ thăm khám. Bệnh sởi do virus gây ra, vì thế không thể sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị. Thay vào đó, phụ huynh nên cho trẻ nghỉ ngơi nhiều hơn, ngủ nhiều hơn, uống đủ nước và có thể sử dụng thuốc hạ sốt như Ibuprofen hay Paracetamol nếu trẻ sốt.
Sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là một bệnh truyền nhiễm do 4 nhóm virus Dengue (DEN-1, DEN-2, DEN-3, DEN-4) truyền qua muỗi gây ra. Bệnh có thể gây sốt, nhức đầu, phát ban và đau nhức khắp cơ thể. Hầu hết các trường hợp sốt xuất huyết sẽ khỏi trong vòng một hoặc hai tuần và không gây ra vấn đề sức khỏe lâu dài nào nếu trẻ được bố mẹ chăm sóc tốt.
Nếu các triệu chứng trở nên trầm trọng hơn trong 1 hoặc 2 ngày đầu tiên sau khi hết sốt, bố mẹ cần đưa trẻ đến các cơ sở bệnh viện hoặc cơ sở y tế để được các bác sĩ chẩn đoán và điều trị thích hợp.
Khi chăm sóc tại nhà, bố mẹ cần theo dõi thân nhiệt của trẻ và báo ngay cho nhân viên y tế nếu trẻ có dấu hiệu sốt cao khó hạ. Phụ huynh có thể sử dụng thuốc hạ sốt theo hướng dẫn của bác sĩ và tuyệt đối không được sử dụng Aspirin, Ibuprofen. Vệ sinh mắt, mũi, họng hàng ngày bằng dung dịch nước muối sinh lý 0,9%.
Trong quá trình mắc bệnh sốt xuất huyết, bố mẹ cần cho trẻ tiêu thụ những loại thức ăn mềm, lỏng như cháo, bột, sữa và không cho trẻ ăn những loại thức ăn và nước uống có màu nâu/đỏ. Khuyến khích uống nhiều nước, bao gồm nước đun sôi để nguội, nước trái cây và các loại nước điện giải. Cho trẻ mặc quần áo vải mềm, thấm hút mồ hôi và đảm bảo vệ sinh da cho trẻ, đặc biệt sau khi tắm bằng nước ấm lúc trẻ không sốt.

Bệnh bạch hầu
Bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở các vùng như họng, mũi, thanh quản và có thể xuất hiện ở da và niêm mạc khác. Bệnh do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra, với các biểu hiện như viêm họng, đau nuốt, da xanh, mệt mỏi, và sưng đau vùng cổ.
Thể bệnh nặng nề nhất của bạch hầu ở trẻ em là bạch hầu thanh quản, gây nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác, có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm như tắc nghẽn đường hô hấp, viêm cơ tim, viêm đa dây thần kinh, suy tim, hôn mê, liệt cơ hô hấp và tử vong.
Ngay khi nghi ngờ bị bạch hầu, cần đưa trẻ đi khám và tuân thủ chỉ dẫn của bác sĩ. Đồng thời, bố mẹ cần cách ly trẻ, theo dõi triệu chứng thường xuyên, cho trẻ nghỉ ngơi nhiều, uống đủ nước và ăn thức ăn mềm, dễ nuốt, dễ tiêu hóa và phối hợp sử dụng kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ.
Viêm tai giữa
Viêm tai giữa là tình trạng nhiễm trùng tai giữa, thường phát triển sau khi bị nhiễm trùng đường hô hấp do virus, chẳng hạn như cảm lạnh hoặc cúm. Triệu chứng nhiễm trùng tai ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thường không đặc hiệu và có thể bao gồm sốt, kéo tai, quấy khóc, giảm hoạt động, chán ăn, nôn mửa, tiêu chảy và chảy dịch từ tai ngoài.
Sau khi chẩn đoán xác định trẻ bị viêm tai giữa, các bác chuyên khoa có thể chỉ định các phương pháp điều trị sử dụng thuốc kháng sinh, thuốc điều trị đau và sốt tùy theo tình trạng diễn biến của bệnh. Cùng với đó, phụ huynh cần chăm sóc trẻ thật tốt tại nhà, chú ý vệ sinh tai, mũi, họng, xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý, tuân thủ hướng dẫn chăm sóc của bác sĩ và đưa trẻ đến bệnh viện khi các triệu chứng bệnh ở trẻ tiến triển theo chiều hướng xấu đi.
Nhiễm trùng đường tiết niệu
Nhiễm khuẩn đường tiết niệu thường xảy ra ở trẻ do vi khuẩn hoặc virus xâm nhập vào đường tiết niệu, gây biểu hiện sốt, kích thích, quấy khóc ở trẻ nhỏ, đau khi đi tiểu, đi tiểu nhiều lần, đau bụng ở trẻ lớn, đi tiểu đau buốt, thức giấc nhiều lần, đi tiểu dầm, nước tiểu đục hoặc lẫn máu. Nếu nhiễm trùng lan đến bể thận, gọi là viêm thận bể thận, triệu chứng cũng tương tự nhưng diễn biến hơn, bao gồm mệt mỏi, sốt cao, rét run trong cơn sốt, đau vùng lưng và nôn nhiều.
Khi trẻ bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu, việc sử dụng kháng sinh và kiểm tra nước tiểu sau vài ngày là cần thiết để đánh giá tình trạng nhiễm trùng. Uống đủ nước là rất quan trọng để làm dịu các triệu chứng của nhiễm trùng đường tiết niệu, bố mẹ cần giúp trẻ uống nhiều nước và chia nhỏ thành nhiều lần uống trong ngày, nhưng tuyệt đối tránh cafe, soda hoặc trà trong giai đoạn này.
Trong các trường hợp nặng, sốt cao liên tục, mệt mỏi, nôn hoặc không uống thuốc, xuất hiện tình trạng luồng trào ngược bàng quang niệu quản…, bố mẹ cần đưa trẻ đến bệnh viện để các bác sĩ cân nhắc nhập viện điều trị.
Nhiễm trùng da
Nhiễm trùng da ở trẻ nhỏ là tình trạng làn da bị viêm nhiễm do vi khuẩn, virus, nấm hoặc ký sinh trùng gây ra. Da của trẻ mỏng manh, nhạy cảm và dễ bị tổn thương dưới tác động của thời tiết và các yếu tố bên ngoài.
Đặc biệt vào mùa hè nóng bức, sự kết hợp giữa yếu tố nhiệt độ tăng cao, tình trạng tiết nhiều mồ hôi và bụi bẩn môi trường có thể tạo điều kiện lý tưởng cho vi sinh vật gây nhiễm trùng da ở trẻ nhỏ. Bệnh nhiễm trùng da có thể gây tổn thương da sâu hoặc chỉ khu trú ở một số vùng như nang lông, tuyến mồ hôi.
Nhiễm trùng da có nhiều loại khác nhau, do các nguyên nhân khác nhau gây ra nên cách điều trị cũng sẽ khác nhau. Vì thế, khi nhận thấy tình trạng da của trẻ trở nên bất thường, bố mẹ cần đưa trẻ đến các phòng khám da liễu hoặc cơ sở y tế để được các bác sĩ khám và tư vấn cách chăm sóc, điều trị cho trẻ mau khỏi.
Tại nhà, bố mẹ cần giữ vệ sinh thân thể và môi trường sinh hoạt của trẻ sạch sẽ, thoáng mát, cho trẻ mặc đồ rộng rãi, mỏng nhẹ, thấm hút mồ hôi, uống nhiều nước, ăn thêm nhiều trái cây, rau xanh để cải thiện tình trạng da, hạn chế da nhạy cảm, hỗ trợ tích cực cho quá trình điều trị.

4. Các bệnh ngoài da hay gặp ở trẻ dưới 5 tuổi
Ngoài bệnh thủy đậu, sởi kể trên, có một số bệnh với biểu hiện ngoài da thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi bao gồm:
- Zona thần kinh: Zona thần kinh do sự tái hoạt động của VZV (cũng là virus thủy đậu) gây ra sau khi người mắc thủy đậu khỏi bệnh. VZV có thể tồn tại dưới dạng tiềm tàng, âm thầm trong hạch thần kinh của cơ thể nhiều năm thậm chí đến hết đời, sẽ “lợi dụng” lúc hệ miễn dịch bị suy yếu, chúng sẽ tái hoạt và gây ra zona thần kinh. Theo thống kê, trẻ từng mắc thủy đậu sơ sinh có nguy cơ cao mắc zona thần kinh, với tỷ lệ tử vong lên tới 30% và tỷ lệ mắc zona trong 4 năm đầu đời là 15%. Zona thần kinh điển hình bởi triệu chứng viêm nhiễm cấp tính ngoài da, là các bọng nước chứa đầy dịch mủ có thể mọc ở khắp nơi trên cơ thể, thường chỉ xuất hiện một bên. Khi mắc zona thần kinh, trẻ sẽ trải qua cảm giác ngứa ngáy, căng tức vùng da bị ảnh hưởng, bỏng rát, đau nhức dai dẳng dữ dội hoặc đau nhói liên tục. Ngoài ra, trẻ cũng có thể có triệu chứng toàn thân như sốt, mệt mỏi, nhức đầu và suy nhược.
- Rubella: Hay còn gọi là sởi Đức, là bệnh truyền nhiễm do virus Rubella gây nên. Bệnh thường gặp ở trẻ em với triệu chứng sốt, phát ban, đau khớp, hạch to ở sau tai, cổ và dưới chẩm. Nguy hiểm hơn, những trẻ sinh ra từ bà mẹ nhiễm Rubella có nguy cơ rất cao mắc hội chứng Rubella bẩm sinh, khiến trẻ phải gánh chịu nhiều dị tật nghiêm trọng như dị tật tim, điếc, đục thủy tinh thể, chậm phát triển... thậm chí tử vong/thai chết lưu.
- Mụn cóc sinh dục: Mụn cóc sinh dục là tình trạng tăng sinh tế bào biểu bì, gây ra tình trạng sùi, nổi mụn, sưng, u nhú màu da hoặc màu hồng ở trên những vùng da bị tổn thương, phổ biến nhất là vùng gần cơ quan sinh dục. Nguyên nhân chính gây ra tình trạng mụn cóc sinh dục ở trẻ em thường là virus gây u nhú ở người - HPV (Human Papilloma Virus). Nhiều lầm tưởng cho rằng, trẻ em không thể bị mụn cóc sinh dục, trẻ em còn quá nhỏ để quan hệ tình dục làm sao có thể bị mụn cóc… Tuy nhiên, ngoài lây truyền qua đường tình dục, HPV - tác nhân chính gây ra mụn cóc sinh dục có thể lây truyền thông qua các tiếp xúc (sờ, chạm) trực tiếp vào mụn cóc khi vùng tiếp xúc có vết thương hở, tiếp xúc trực tiếp thông qua các đồ vật có chứa HPV trên bề mặt hoặc thậm chí một số nghiên cứu còn cho rằng phụ nữ mang thai có thể lây nhiễm HPV cho thai nhi khi sinh. Mặc dù không gây nguy hiểm đến trẻ nhưng mụn cóc sinh dục gây ra rất nhiều bất tiện trong sinh hoạt, có thể để lại sẹo xấu cho trẻ đến suốt đời gây mất thẩm mỹ…

5. Các bệnh về mắt thường xuất hiện ở trẻ dưới 5 tuổi
Trẻ dưới 5 tuổi thường mắc phải các bệnh về mặt sau:
- Tật khúc xạ (cận thị, loạn thị, viễn thị…): là tình trạng mắt trẻ bị mờ, không nhìn rõ được vật phía trước.
- Nhược thị: là tình trạng thị lực kém ở một bên mắt. Một đứa trẻ có thể bị nhược thị khi không được điều trị các vấn đề như tật khúc xạ, lác (mắt lệch), sụp mí mắt hoặc đục thủy tinh thể.
- Mắt lác: bệnh lác (mắt lệch hoặc lác) xảy ra ở khoảng 4% trẻ em. Bệnh biểu hiện thông qua tình trạng một mắt có thể nhìn thẳng về phía trước trong khi mắt còn lại nhìn vào/ra/lên/xuống. Bệnh lác cần được điều trị càng sớm càng tốt. (9)
- Bệnh Ptosis: là tình trạng mí mắt sụp xuống, gây cản trở tầm nhìn. Nếu mí mắt sụp xuống quá thấp, trẻ có thể cần phải phẫu thuật để nâng mí mắt lên, nhằm cải thiện thị lực và tầm nhìn của mắt.
- Đục thủy tinh thể: là tình trạng thủy tinh thể của mắt vốn trong suốt lại bị trong do chấn thương hoặc do bẩm sinh. Một số bệnh truyền nhiễm có thể gây ra biến chứng đục thủy tinh thể cho trẻ như thủy đậu, rubella bẩm sinh… Trong một số trường hợp, đục thủy tinh thể có thể là triệu chứng của tình trạng u nguyên bào võng mạc (ung thư võng mạc hoặc thành sau của mắt)
- Viêm kết mạc: là tình trạng kích ứng phần trắng của mắt do nhiễm trùng hoặc dị ứng. Viêm kết mạc có thể khiến mắt của trẻ trở nên đỏ, ngứa, dễ chảy nước mắt...
- Bệnh Stye and Chalazion: hay còn gọi là lẹo mắt, là một vết sưng đỏ, đau ở rìa mí mắt do nhiễm khuẩn.
- Ống dẫn nước mắt bị chặn: Khoảng 20% trẻ sinh ra bị tắc ống dẫn nước mắt, khiến nước mắt không chảy ra bình thường, cần được các bác sĩ nhãn khoa can thiệp để mở ống dẫn nước mắt.
6. Một số bệnh nguy hiểm khác hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi
Viêm não nhật bản
Bệnh viêm não Nhật Bản là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus viêm não Nhật Bản gây ra, khởi phát với triệu chứng sốt cao, nôn, rối loạn vận động (gồng vặn người từng cơn, run rẩy, múa giật, co giật), tăng tiết đờm rãi, nói khó, ngủ gà ngủ gật, mất trí nhớ, lơ mơ, li bì, hôn mê hoặc thậm chí nhiều trường hợp trẻ bị viêm não Nhật Bản không xuất hiện bất kỳ triệu chứng nào.
Trẻ bị viêm não Nhật Bản có thể gánh chịu rất nhiều di chứng kéo dài về thần kinh và vận động như: liệt cứng, không nói được, rối loạn tính cách, thiểu năng trí tuệ, trường hợp nặng có thể đe dọa tính mạng, dẫn đến tử vong.
Theo WHO, viêm não Nhật Bản là tác nhân chính gây viêm não virus ở nhiều nước châu Á. Mỗi năm ước tính khoảng 68.000 ca lâm sàng trên toàn cầu, trong đó có khoảng 13.600 - 20.400 ca tử vong. (10)
Viêm gan
Viêm gan là tình trạng viêm nhiễm, tổn thương tế bào gan. Có rất nhiều tác nhân có thể gây ra tình trạng viêm gan ở trẻ em dưới 5 tuổi, bao gồm: Virus viêm gan (A, B, C, D và E), virus cự bào, virus Epstein-Barr, virus herpes simplex, Enterovirus, Adenovirus, Parvovirus… Trong đó virus viêm gan A và B là tác nhân chính gây hầu hết các ca viêm gan ở cả trẻ em và người lớn trên toàn thế giới.
Đối với viêm gan A, bệnh có thể không có triệu chứng hoặc thường khởi phát với tình trạng mệt mỏi âm ỉ kéo dài và buồn nôn, tiếp theo là chán ăn, đau bụng, sau đó nước tiểu sẫm màu và vàng da. Viêm gan A có thể biến chứng suy gan, đau khớp, rối loạn thận, tụy và máu; trường hợp nặng có thể dẫn đến suy gan cấp và tử vong.
Đối với viêm gan B, bệnh gây ra bởi virus viêm gan B thuộc họ Hepadnavirus. Bệnh thường khởi phát với biểu hiện sốt nhẹ, chán ăn, bụng ậm ạch, khó tiêu, đầy bụng, rối loạn tiêu hóa, đau đầu, nôn, sau khoảng 7 - 10 ngày da bắt đầu ngả vàng, lúc này trẻ sẽ hết sốt, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu, phân bạc màu, đau khớp. Ở thể tối cấp, viêm gan B có thể diễn biến rầm rộ, gây hôn mê và tử vong trên 95%. Viêm gan B có thể biến chứng viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan.
Lao
Lao là bệnh truyền nhiễm do trực khuẩn lao Mycobacterium Tuberculosis gây nên với triệu chứng mệt, số, đổ mồ hôi đêm, ho dai dẳng kéo dài trên 2 tuần, kém ăn, sụt cân, đau ngực, khạc đờm, ho khạc ra máu… Bệnh lao không chỉ gây ra các triệu chứng đường hô hấp mà còn có thể biến chứng ho ra máu, tràn khí/tràn dịch màng phổi, giãn phế quản, xơ phổi, suy hô hấp mạn tính.
Theo thống kê từ WHO, trẻ em và thanh thiếu niên dưới 15 tuổi chiếm khoảng 11% tổng số ca mắc bệnh lao trên toàn cầu, tương ứng với 1,1 triệu trẻ em và thanh thiếu niên dưới 15 tuổi mắc bệnh lao mỗi năm. (11)

Bại liệt
Bại liệt là bệnh truyền nhiễm virus cấp tính do Poliovirus gây nên, phổ biến ở trẻ em dưới 5 tuổi. Các triệu chứng ban đầu của bệnh bại liệt là sốt, mệt mỏi, nhức đầu, nôn mửa, cứng cổ và đau nhức chân tay. Theo WHO, cứ 200 ca nhiễm trùng virus bại liệt thì có 1 ca dẫn đến liệt (bại liệt thể liệt) không thể phục hồi (thường là ở chân). Trong số những người bị liệt, có khoảng 5 – 10% tử vong do co thắt cơ hô hấp, gây liệt hô hấp, tắc nghẽn đường thở. (12)
Sốt co giật
Sốt co giật là tình trạng lên cơn co giật xảy ra ở trẻ em khi bị sốt cao, phổ biến ở trẻ từ 6 tháng tuổi đến 6 tuổi. Các cơn co giật do sốt có thể kéo dài vài giây hoặc tối đa 15 phút và sau đó khiến trẻ mệt mỏi, suy nhược, buồn ngủ. Hầu hết các cơn co giật đều diễn ra rất nhanh chóng, thường kéo dài ít hơn 2 - 3 phút.
Phụ huynh có thể nhận biết tình trạng sốt co giật của trẻ thông qua triệu chứng mất ý thức, co giật tay chân, khó thở, sùi bọt mép, màu da trở nên nhợt nhạt hoặc hơi xanh, trẻ có thể đảo mắt liên tục, chỉ nhìn thấy lòng trắng trong mắt của trẻ… Theo thống kê, cứ 20 trẻ thì có một trẻ bị co giật do sốt. Khoảng 30% trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ từng bị co giật do sốt sẽ tái phát trong tương lai. (13)
Suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng là tình trạng phát triển khi cơ thể bị mất cân bằng các dưỡng chất như vitamin, khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác cần thiết để duy trì các mô và chức năng cơ quan khỏe mạnh. Suy dinh dưỡng xảy ra ở những người thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng.
Trẻ bị suy dinh dưỡng có thể thấp bé so với tuổi, gầy gò hoặc béo phì, bơ phờ, hệ miễn dịch bị suy yếu, có thể gây ảnh hưởng xấu đến tất cả các hệ thống trong cơ thể và các giác quan như thị giác, vị giác và khứu giác. Suy dinh dưỡng cũng có thể khiến trẻ rơi vào trạng thái cảm xúc lo lắng, thay đổi tâm trạng và các triệu chứng tâm thần khác.
Ngoài ra, trẻ suy dinh dưỡng cũng có thể biểu hiện thông qua tình trạng da nhợt nhạt, dày và khô, dễ bị bầm tím, dễ phát ban, dễ thay đổi sắc tố da, đau khớp, xương mềm, nướu dễ chảy máu, lưỡi của trẻ có thể bị sưng hoặc teo và nứt, quáng gà, tăng độ nhạy cảm với ánh sáng…
Còi xương
Bệnh còi xương ở trẻ em là tình trạng xương mềm, yếu và dễ gãy do thiếu hụt hoặc rối loạn chuyển hóa của vitamin D, Canxi hoặc Phosphate, có thể khiến trẻ phát triển chậm và trong một số trường hợp gây biến dạng xương. Trẻ bị còi xương thường gặp tình trạng đau nhức, mềm ở xương chi, xương chậu, xương cột sống; chậm phát triển chiều cao; trẻ trở nên chán ăn, lười ăn, suy dinh dưỡng; thường xuyên bị chuột rút; dễ gãy xương; răng mọc chậm, cấu trúc bất thường, dễ bị sâu răng, men răng yếu….
⇒ Xem thêm: 28 bệnh thường gặp ở trẻ em: Triệu chứng nhận biết và phòng ngừa

Phòng ngừa các bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi bằng cách nào?
Phòng ngừa bệnh cho trẻ em dưới 5 tuổi đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sức khỏe toàn diện và phát triển toàn diện của trẻ. Dưới đây là một số biện pháp phòng ngừa quan trọng:
1. Tiêm đầy đủ các vắc xin cho trẻ dưới 5 tuổi
Tiêm phòng vắc xin là phương pháp phòng ngừa bệnh tật hiệu quả, nhanh chóng và tiết kiệm nhất hiện nay. Tiêm vắc xin đầy đủ và đúng lịch theo khuyến cáo của các tổ chức và chuyên gia y tế giúp trẻ hình thành đầy đủ kháng thể đặc hiệu chủ động, bảo vệ trẻ chống lại nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Để được tư vấn, đặt lịch tiêm chủng vắc xin, đăng ký gói vắc xin hoặc tham gia các chương trình ưu đãi, Khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với VNVC qua:
- Hotline: 028 7102 6595;
- Fanpage: VNVC – Trung tâm Tiêm chủng Trẻ em và Người lớn;
- Tra cứu trung tâm tiêm chủng VNVC gần nhất tại đây;
Để đặt mua vắc xin và tham khảo các sản phẩm vắc xin, Quý khách vui lòng truy cập: vax.vnvc.vn.
2. Dạy cho bé thói quen vệ sinh cá nhân thường xuyên
Hướng dẫn trẻ em về vệ sinh cá nhân như cách đánh răng, tắm rửa sạch sẽ và giữ sạch tay, giúp ngăn ngừa lây lan các bệnh lây nhiễm. Nhờ đó, trẻ hình thành thói quen vệ sinh cá nhân từ nhỏ, phát triển tư duy chăm sóc bản thân tốt hơn, giúp tạo nền tảng sức khỏe mạnh mẽ cho trẻ sau này.
3. Giữ môi trường sống thông thoáng và vệ sinh
Bảo đảm nguồn nước sạch, điều hòa môi trường sống để giảm nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp nguy hiểm và tăng cường sức đề kháng của trẻ. Đặc biệt, giữ sạch nhà cửa và khu vực chơi của trẻ để ngăn ngừa tình trạng nhiễm khuẩn xảy ra.
4. Cung cấp chế độ dinh dưỡng khoa học
Bố mẹ cần bảo đảm rằng trẻ được cung cấp một chế độ dinh dưỡng đủ đầy và cân đối, bao gồm đủ các nhóm dưỡng chất thiết yếu như protein, chất béo, vitamin, khoáng chất và chất xơ để phát triển toàn diện và tăng cường sức đề kháng. Hạn chế cho trẻ tiêu thụ những thực phẩm không lành mạnh, nhiều dầu mỡ, nhiều gia vị, đồ muối chua, thực phẩm chế biến sẵn, đồ ăn đóng hộp…
5. Cho bé tham gia các hoạt động thể chất
Khuyến khích trẻ tham gia hoạt động vận động thể chất để cải thiện sức đề kháng, nâng cao khả năng hoạt động của hệ thống miễn dịch, tăng cường sức khỏe tim mạch, hô hấp, não bộ…
6. Tránh xa khói bụi, khói thuốc, không khí độc hại…
Tạo môi trường sống không khói bụi và không khí độc hại giúp bảo vệ trẻ tốt hơn khỏi các tác động tiêu cực từ môi trường, giảm nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp như viêm phế quản, viêm phổi...
7. Để mắt đến trẻ để phát hiện các dấu hiệu bệnh kịp thời
Quan sát sức khỏe của trẻ một cách chặt chẽ và cần có biện pháp điều trị ngay khi phát hiện dấu hiệu bệnh, từ đó ngăn ngừa sự phát triển và diễn biến nghiêm trọng của bệnh, “bắt kịp” những “giai đoạn vàng” trong việc điều trị, cải thiện tỷ lệ điều trị thành công, gia tăng hiệu quả, hạn chế tối đa các di chứng và tiết kiệm đáng kể các chi phí chăm sóc y tế liên quan.

Những sai lầm bố mẹ cần tránh khi chăm sóc trẻ con dưới 5 tuổi
Khi chăm sóc trẻ con dưới 5 tuổi, có một số sai lầm mà bố mẹ cần tránh để đảm bảo sức khỏe và phát triển toàn diện cho trẻ, cụ thể:
- Không tiêm vắc xin hoặc tiêm không đủ mũi, tiêm không đúng lịch cho trẻ: Điều này sẽ khiến hành trình tiêm chủng trọn đời của trẻ bị gián đoạn, hệ thống miễn dịch của trẻ bị “khiếm khuyết”, các kháng thể bảo vệ trẻ chống lại các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nguy hiểm không được hình thành đầy đủ, nguy cơ cao trẻ bị mắc bệnh nếu tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh trong tương lai. Khi mắc bệnh, trẻ phải đối mặt với các biến chứng nguy hiểm, di chứng kéo dài, phải nhập viện điều trị cực kỳ tốn kém. Do đó, bố mẹ cần đảm bảo rằng trẻ được tiêm đầy đủ và đúng lịch các loại vắc xin quan trọng để bảo vệ trẻ khỏi nhiều loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
- Không đề cao sự quan trọng của vệ sinh cá nhân: Việc này khiến trẻ đối diện với nhiều nguy cơ phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh bên ngoài môi trường, dễ mắc phải các bệnh nhiễm trùng ngoài da, viêm nhiễm đường ruột và tổn thương đa cơ quan. Do đó, bố mẹ cần hướng dẫn trẻ về các thói quen vệ sinh cá nhân như đánh răng, tắm rửa sạch sẽ và giữ sạch tay để chặn đứng nguy cơ lây nhiễm các tác nhân gây bệnh, ngăn ngừa lây lan các bệnh lý truyền nhiễm nguy hiểm.
- Cung cấp chế độ dinh dưỡng không đủ đầy: Sai lầm này có thể dẫn đến thiếu hụt dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển của trẻ, khiến sức đề kháng và hệ miễn dịch bị suy giảm chức năng, cũng khiến trẻ dễ mắc bệnh hơn so với những trẻ ăn uống đầy đủ dưỡng chất khác. Do đó, bố mẹ cần đảm bảo rằng chế độ dinh dưỡng của trẻ là cân đối và đủ đầy.
- Môi trường sống của trẻ không thông thoáng và kém vệ sinh: Môi trường sống không tốt có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của trẻ, cũng là điều kiện cho các tác nhân gây bệnh sinh sôi, phát triển và lây lan. Chính vì vậy, bố mẹ cần đảm bảo môi trường sống của trẻ luôn sạch sẽ và thông thoáng.
- Xem nhẹ tầm quan trọng của hoạt động thể chất: Nhiều cha mẹ đặt nhiều áp lực học tập cho con, không khuyến khích trẻ tham gia hoạt động vận động thể chất. Điều này khiến trẻ bị suy giảm miễn dịch, đề kháng “mỏng manh”, thể chất suy yếu, vô tình đẩy trẻ vào nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trước những chấn thương vật lý và sự tấn công của các tác nhân gây bệnh, cản trở trẻ phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần.
- Tiếp xúc với khói bụi, khói thuốc và không khí độc hại: Bố mẹ cần tránh cho trẻ tiếp xúc với môi trường ô nhiễm để bảo vệ hệ thống hô hấp và sức khỏe toàn diện của trẻ.
- Không quan tâm đến sức khỏe và dấu hiệu bệnh của trẻ: Việc thiếu quan tâm đến sức khỏe của trẻ có thể dẫn đến việc bỏ qua dấu hiệu bệnh từ sớm, bỏ lỡ “thời điểm vàng” để điều trị một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, khiến việc điều trị bệnh lý trở nên khó khăn và tốn kém. Ngoài ra, việc thiếu quan tâm đến sức khỏe và các dấu hiệu bệnh của trẻ cũng có thể tiềm ẩn nguy cơ bệnh dịch lan rộng khi trẻ sinh hoạt ở các môi trường nguy cơ cao lây nhiễm bệnh tật như trường học, ký túc xá...

Trẻ em dưới 5 tuổi là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trước sự tấn công của các tác nhân gây bệnh. Trẻ càng nhỏ, càng dễ mắc bệnh, bệnh diễn biến càng nặng, càng dễ biến chứng nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng của trẻ. Tin vui là, hiện nay đã có rất nhiều bệnh lý có thể được phòng ngừa hiệu quả bằng cách tiêm ngừa vắc xin.
Chính vì thế, để bảo vệ sức khỏe của trẻ trước nguy cơ bệnh tật, bố mẹ cần chủ động cho trẻ chích ngừa đầy đủ và đúng lịch các mũi vắc xin quan trọng theo độ tuổi. Tại Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC hiện đang cung ứng hơn 40 loại vắc xin chất lượng cao, được bảo quản ở hệ thống kho lạnh đạt chuẩn GSP với khả năng phòng ngừa gần 50 bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Bên cạnh đó, bố mẹ cũng cần nắm được dấu hiệu nhận biết các bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi và biết cách xử trí nhanh chóng, khoa học khi phát hiện trẻ xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ của bệnh nhằm giúp trẻ được tiếp nhận điều trị và chăm sóc y tế từ sớm, giảm thiểu nguy cơ bệnh trở nặng và biến chứng, giúp gia tăng hiệu quả điều trị và tiết kiệm đáng kể chi phí y tế cho phụ huynh.
 
                
                
                     
                
                
                     
                
            - Colds in children. (2005). Paediatrics & Child Health, 10(8), 493–495. https://doi.org/10.1093/pch/10.8.493
- Allergic rhinitis | Boston Children’s Hospital. (n.d.). https://www.childrenshospital.org/conditions/allergic-rhinitis
- Articles. (n.d.). https://www.cedars-sinai.org/health-library/diseases-and-conditions—pediatrics/a/acute-bronchitis-in-children.html
- Website, N. (2024, June 13). Laryngitis. nhs.uk. https://www.nhs.uk/conditions/laryngitis/
- Pneumonia in children: Everything you need to know. (n.d.). UNICEF. https://www.unicef.org/stories/childhood-pneumonia-explained
- ENT Health. (2024, January 24). Pediatric sinusitis – ENT Health. https://www.enthealth.org/conditions/pediatric-sinusitis/
- World Health Organization: WHO & World Health Organization: WHO. (2024, May 6). Asthma. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/asthma
- GERD (Gastroesophageal reflux disease) in children. (2024, June 20). Johns Hopkins Medicine. https://www.hopkinsmedicine.org/health/conditions-and-diseases/gerd-gastroesophageal-reflux-disease-in-children
- Childhood eye diseases and conditions. (2021, July 2). American Academy of Ophthalmology. https://www.aao.org/eye-health/tips-prevention/common-childhood-diseases-conditions
- World Health Organization: WHO. (2019, May 9). Japanese encephalitis. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/japanese-encephalitis
- Programme, G. T. (2022, March 16). WHO operational handbook on tuberculosis: module 5: management of tuberculosis in children and adolescents. https://www.who.int/publications/i/item/9789240046832
- World Health Organization: WHO. (2023, October 24). Poliomyelitis. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/poliomyelitis
- Department of Health & Human Services. (n.d.). Fever – febrile convulsions. Better Health Channel. https://www.betterhealth.vic.gov.au/health/conditionsandtreatments/fever-febrile-convulsions
 
                                         
                                                     
                                                





 
          
      
     




