HPV 31 33 35 gây nên những bệnh gì? Phòng ngừa được không?

10:03 22/06/2023

Quản lý Y khoa Vùng 1 - Đông Nam Bộ
Hệ thống tiêm chủng VNVC
HPV 31 33 35 có thể gây ra rất nhiều các bệnh lý nguy hiểm, điển hình là các bệnh lý liên quan đến ung thư, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, thậm chí còn đe dọa tính mạng người bệnh, dẫn đến tử vong. Vậy 3 chủng virus HPV này gây nên những bệnh nguy hiểm nào? Liệu có phòng ngừa được không?
1. Nhóm virus HPV nguy cơ cao
HPV (Human Papiloma Virus) là một loại virus gây u nhú ở người, được xem là tác nhân hàng đầu gây ra các bệnh lây qua đường tình dục. Có rất nhiều loại HPV khác nhau, hiện nay đã xác định có hơn 100 chủng HPV, trong đó có hơn 40 chủng lây truyền qua đường tình dục, gây ra các bệnh lý vô cùng nghiêm trọng. Theo nhiều thống kê, HPV là virus có liên quan đến 99,7% trường hợp ung thư tế bào vảy cổ tử cung trên toàn thế giới
Tuy nhiên, tùy vào chủng virus cơ thể bị lây nhiễm, người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng và bệnh lý khác nhau. Một số chủng HPV chỉ gây ra các nốt mụn ở trên bề mặt da, một số lại xâm nhập và gây bệnh ở bên trong các cơ quan sinh dục, gây ra các chứng bệnh nguy hiểm hơn, điển hình là ung thư cổ tử cung, ung thư vòm họng, ung thư hậu môn,…
Thường virus HPV được phân thành 2 nhóm theo nguy cơ gây ung thư, cụ thể là:
- Phân nhóm các type HPV nguy cơ thấp: Bao gồm HPV type 6, 11, 40, 42, 43, 44, 54, 55, 61, 70, 72, 81 và CP6108. Nhóm HPV này thường là nhóm HPV tương đối lành tính, gây ra các bệnh mụn cóc sinh dục, sùi mào gà.
- Phân nhóm các type HPV nguy cơ cao: Bao gồm HPV type 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66, 68, 73 và 82. Nhóm HPV này rất nguy hiểm, gây tổn thương ở nội mô vảy cao và đặc biệt là ung thư biểu mô xâm lấn, gây ra ung thư cổ tử cung, ung thư vòm họng, ung thư hậu môn, ung thư dương vật, ung thư trực tràng,…
Trong nhóm nguy cơ cao, HPV 16 và 18 là 2 chủng virus HPV phổ biến và nguy hiểm nhất, gây ra khoảng 70% trường hợp ung thư cổ tử cung và 50% trường hợp tiền ung thư cổ tử cung - cấp độ cao. HPV 31 33 35 là các chủng virus HPV phổ biến tiếp theo có nguy cơ gây ra ung thư và các tổn thương loạn sản hoặc tiền ung thư. [1]
2. HPV 31 33 35 là gì?
2.1. HPV type 31
HPV 31 là một chủng virus thuộc phân nhóm các type HPV nguy cơ gây ung thư cao. Chủng virus này khu trú, lây truyền và hoạt động ở các lớp sâu của da, trong các tế bào cơ bản của màng tế bào. HPV 31 có nguy cơ tiến triển tiền ung thư và ung thư cổ tử cung tương tự như HPV 18 và chiếm 4% các trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
HPV 31 thường được tìm thấy trên cơ quan sinh dục, trên da và màng nhầy. Chủng virus này thường xâm nhập và khu trú ở các các tế bào khỏe mạnh của cơ thể trong nhiều năm, trong khoảng thời gian này, hầu như chúng không gây ra các triệu chứng rõ ràng, nhưng khi hệ miễn dịch suy giảm, HPV 31 lập tức kích hoạt, tấn công và gây bùng phát bệnh mạnh mẽ.
Quan hệ tình dục là con đường truyền nhiễm HPV 31 từ người sang người phổ biến nhất, thậm chí ngay cả bao cao su cũng không bảo vệ an toàn 100% các tình trạng nhiễm trùng bởi HPV 31, do chủng virus này có phân tử lượng thấp, có thể xâm nhập vào cơ thể bạn tình ngay cả khi sử dụng bao cao su. Ngoài ra, HPV 31 còn có thể lây truyền qua các tiếp xúc với niêm mạc, bộ phận chưa dịch tiết, các vết thương hở và từ mẹ sang trẻ sơ sinh nếu người mẹ bị nhiễm HPV trong quá trình chuyển dạ.
Các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao bao gồm:
- Các đối tượng bị suy giảm khả năng miễn dịch;
- Thường xuyên lui tới các khu vực công cộng như hồ bơi, phòng xông hơi;
- Giữ vệ sinh cá nhân không sạch sẽ;
- Không duy trì mối quan hệ hôn nhân một vợ - một chồng chung thủy, an toàn.

2.2. HPV type 33
HPV 33 là virus u nhú ở người thuộc nhóm alpha-9, có liên quan mật thiết đến HPV 16, được xác định là nguyên nhân của 5% trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
HPV 33 lây nhiễm thông qua đường quan hệ tình dục, tiếp xúc da kề da thông qua bộ phận sinh dục, các bộ phận chứa dịch tiết và tuyến nước bọt. Đặc biệt, HPV 33 là chủng virus rất chịu nhiệt, có thể tồn tại trong môi trường khô trong thời gian dài và có thể gây ra trường hợp lây truyền vô tính, chẳng hạn như việc tiếp xúc với quần áo hay các vật dụng có mang virus.
HPV 33 khi xâm nhập vào cơ thể, có thể gây ra các tình trạng tổn thương hệ thống sinh sản, xuất hiện các triệu chứng ngứa ngáy, đau, rát bộ phận sinh dục; bộ phận sinh dục tiết chất nhầy màu trắng đục, hôi tanh, đôi khi bị đóng cục. Đây là các tình trạng viêm nhiễm bộ phận sinh dục do chủng virus này gây ra. Ngoài ra, trên bề mặt da trên lớp biểu bì của người bị nhiễm còn có thể xuất hiện các nốt mụn cóc sinh dục và các nốt mụn này sẽ lây lan nhanh chóng nếu không được chăm sóc đúng cách.
Đối tượng có nguy cơ nhiễm virus HPV 33 cao là các đối tượng quan hệ tình dục với nhiều người, không tuân thủ theo nguyên tắc hôn nhân chung thủy một vợ - một chồng, không sử dụng các biện pháp an toàn khi quan hệ, quan hệ bằng đường miệng, các đối tượng bị suy giảm miễn dịch và tuổi tác cũng là một yếu tố tiềm ẩn nguy cơ đối với nhiễm trùng HPV.

2.3. HPV type 35
HPV 35 là một chủng virus gây u nhú ở người, thuộc phân nhóm HPV có nguy cơ gây ung thư cao, hoạt động ở cấp độ tế bào, tác động tiêu cực đến các gen tế bào, khiến hoạt động của tế bào trở nên bất thường, từ đó sinh ra các khối u ác tính, dẫn đến ung thư.
Tương tự như 31 và 33, HPV 35 lây nhiễm qua các vết thương hở, niêm mạc, chúng xâm nhập vào lớp đáy của biểu bì, dần dần xâm nhập vào nhân tế bào và gây ra những đột biến trong gen. Sự phân chia nhanh chóng của nó xảy ra đồng bộ với sự phân chia DNA của tế bào, biểu hiện trực quan dưới dạng u nhú trên bề mặt da và các khối u ác tính.
HPV 35 có thể lây truyền từ người này sang người khác trong cuộc sống hàng ngày: quan hệ tình dụng kém an toàn, từ mẹ sang con khi chuyển dạ, sử dụng chung bát đĩa, khăn tắm chung, nằm chung giường; tiếp xúc bằng xúc giác thông thường, …

3. HPV type 31 33 35 gây nên những bệnh gì?
3.1. Ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung là một trong 3 bệnh lý ung thư ác tính, gây tử vong hàng đầu ở nữ giới chỉ sau ung thư vú. Đây là bệnh lý phát triển chậm, từ từ, thầm lặng và không có dấu hiệu rõ ràng, khiến cho người bệnh chủ quan, nếu không tiến hành điều trị từ sớm bệnh tình ngày càng trầm trọng, khó điều trị và nguy cơ tử vong cao hơn.
Khi bệnh bùng phát, ung thư cổ tử cung sẽ biểu hiện ra những triệu chứng bất thường trên cơ thể phụ nữ như: Đau khi quan hệ, đau rát vùng chậu, chảy máu âm đạo bất thường, dịch tiết âm đạo có mùi hôi và màu xám đục, kinh nguyệt thất thường, đau khi tiểu tiện,… Ở giai đoạn cuối, ung thư cổ tử cung sẽ di căn đến tế bào của các cơ quan khác như phổi, bàng quang, ruột,… gây ra các biến chứng tổn hại nặng nề đến sức khỏe người bệnh. Các biến chứng nguy hiểm mà ung thư cổ tử cung gây ra cho phụ nữ bao gồm: vô sinh, suy thận, thu hẹp âm đạo, phù hạch bạch huyết, hình thành cục máu đông, lỗ rò âm đạo và bàng quang,…
Sự lây nhiễm và gây bệnh của virus HPV, trong đó có HPV 31 33 35 là nguyên nhân chính dẫn đến ung thư cổ tử cung. HPV nói chung và HPV type 31 33 35 nói riêng được đặc trưng bởi 2 loại protein là E6 và E7, chúng có cơ chế ngăn cản khả năng hoạt động của một số gen ức chế khối u, tạo điều kiện cho các tế bào lót ở cổ tử cung phát triển mạnh mẽ vượt quá mức ổn định, phát triển các thay đổi trong gen, gây ra tình trạng ung thư các tế bào cổ tử cung.
Theo Tổ chức Y Tế Thế giới (WHO), ước tính có khoảng 604.000 ca mắc ung thư cổ tử cung mới được chẩn đoán và 342.000 ca tử vong vào năm 2020. Hơn 95% trường hợp ung thư cổ tử cung là do virus u nhú ở người – HPV gây ra. Tại Việt Nam, cứ 100.000 người phụ nữ thì lại có 20 trường hợp mắc ung thư cổ tử cung và trường hợp tử vong là 11. Nhóm đối tượng dễ mắc ung thư cổ tử cung là phụ nữ từ 35-40 tuổi. Tuy nhiên, nhiều quốc gia ghi nhận độ tuổi có nguy cơ mắc phải ung thư cổ tử cung đang có xu hướng trẻ hóa, đây là một dấu hiệu báo động cho sự nguy hiểm và khả năng gây bệnh của chủng virus HPV này.
Có thể thấy, mức độ nguy hiểm của ung thư cổ tử cung do HPV type 31 33 35 là rất lớn, vừa tước đoạt thiên chức làm mẹ, vừa đe dọa đến tính mạng của người phụ nữ. Tuy nhiên, không phải dương tính với HPV 31 33 35 là người bệnh bị ung thư cổ tử cung, nhưng chắc chắn nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn người bình thường. Nếu kịp thời phát hiện và nhanh chóng tiến hành điều trị các tế bào bị nhiễm virus bất thường hoặc tiền ung thư sẽ giảm thiểu khả năng bị tiến triển thành ung thư.
Nếu ung thư cổ tử cung xuất hiện các triệu chứng rõ ràng thì rất khó để điều trị dứt điểm. Với trình độ khoa học công nghệ y khoa hiện nay, ung thư cổ tử cung có thể điều trị nếu can thiệp điều trị đúng cách nhưng các phương pháp hiện nay rất phức tạp và tốn kém nhiều chi phí. Khi chữa trị ung thư cổ tử cung, rất có thể phải cắt bỏ toàn bộ buồng trứng, tử cung và các hạch bạch huyết lân cận.

3.2. Ung thư âm đạo
Ung thư âm đạo là ung thư biểu mô tế bào vảy, tế bào ung thư xuất phát từ lớp lót mặt trong ống âm đạo. Triệu chứng phổ biến nhất của ung thư âm đạo là chảy máu âm đạo bất thường, ngoài ra trong âm đạo còn xuất hiện khối u, khí hư âm đạo, rong kinh, loét trong hoặc xung quanh âm đạo, đau khi quan hệ tình dục, ngứa ngáy âm đạo, dịch tiết âm đạo có máu và mùi hôi,…
Ung thư âm đạo thường xảy ra ở phụ nữ trên 60 tuổi, bước vào thời kỳ mãn kinh, xảy ra do tế bào âm đạo phát triển một cách bất thường trong DNA của nó. Những đột biến này kích thích sự phát triển của tế bào âm đạo và giúp nó phân chia một cách nhanh chóng. Đây là những tế bào bất thường, phát triển và chết đi không tuân theo quy định như các tế bào âm đạo bình thường khác. Chúng phân chia mạnh mẽ, tích tụ dần hình thành khối u, có thể lây lan sang những mô tế bào xung quanh và thậm chí có thể di căn sang các cơ quan khác trong cơ thể.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến cho tế bào ung thư phát triển nhưng theo nhiều thống kê, hơn 50% số ca ung thư âm đạo đều được xác định nguyên nhân do nhiễm một số chủng của virus u nhú ở người, trong đó có HPV 31 33 35. Sự lây nhiễm này có thể xuất phát từ việc tiếp xúc da kề da ở vùng sinh dục như quan hệ qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng và kể cả sự tiếp xúc giữa dịch tiết cũng có thể lây nhiễm virus HPV, gián tiếp gây ra ung thư âm đạo.
Tương tự như ung thư cổ tử cung, ung thư âm đạo cũng là bệnh lý phát triển trong thầm lặng, rất khó phát hiện nếu không thực hiện theo dõi, xét nghiệm định kỳ, khi ung thư âm đạo có triệu chứng rõ rệt thì cũng là giai đoạn khó cứu chữa nhất hoặc có thể cứu chữa nhưng rất tốn kém chi phí, ung thư âm đạo hoàn toàn có thể tái phát ở âm đạo hoặc ở các bộ phận khác trên cơ thể. Bởi xuyên suốt giai đoạn tiến triển, ung thư cổ tử cung sẽ lây lan liên tục từ âm đạo đến các mô xung quanh, lan đến thành xương chậu, bàng quang, trực tràng, tử cung, buồng trứng, cổ tử cung, phổi và xương. Nếu không tiến hành phòng ngừa kịp thời, hệ lụy là rất nghiêm trọng.
Trong một vài trường hợp, có thể chữa trị ung thư âm đạo bằng các phương pháp tiên tiến như phẫu thuật âm đạo loại bỏ khối u bướu ác tính và các mô lành xung quanh, bóc tách hạch bạch huyết; dùng tia năng lượng để xạ trị, tiêu diệt các tế bào ung thư hoặc hóa trị - truyền các dung dịch điều trị thích hợp vào cơ thể để ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư. Ngoài ra, có 2 phương pháp mới đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, vẫn chưa được đưa vào để áp dụng điều trị ung thư âm hộ là liệu pháp miễn dịch và sử dụng chất phóng xạ. Các phương pháp điều trị hầu hết đều không mang lại hiệu quả 100%, vẫn có khả năng tái phát, phải thực hiện nhiều lần và có thể gây ra nhiều tác dụng phụ khác.

3.3. Ung thư hậu môn
Ung thư hậu môn là tình trạng hình thành các khối u ác tính trong niêm mạc hậu môn. Ung thư hậu môn thường là ung thư dạng biểu mô tế bào vảy, biểu mô dạng mụn cóc hoặc u tế bào hắc tố.
Ung thư hậu môn hình thành khi một gen đột biến tác động đến các tế bào khỏe mạnh thành các tế bào bất thường. Các tế bào này nhân lên với tốc độ chóng mặt, mất kiểm soát, chúng không chết đi theo chu kỳ mà sẽ liên tục phân chia và tích lũy thành khối u. Các tế bào ung thư bất thường tại niêm mạc hậu môn này có khả năng tách khỏi khối u ban đầu để xâm lấn sang các bộ phận khác trong cơ thể.
Đây là bệnh lý lây truyền qua đường tình dục, với nguyên nhân phổ biến nhất là do virus u nhú ở người – HPV gây ra. Tuy có khả năng di căn nhưng các tế bào ung thư hậu môn chỉ di căn đến các bộ phận lân cận như gan và phổi, trường hợp di căn ở các bộ phận xa rất hiếm khi xảy ra, nhưng khi xảy ra, các khối u này đặc biệt khó điều trị, thậm chí không thể điều trị được, gây ra tử vong.
Thông thường, ung thư hậu môn không có bất kỳ triệu chứng nào hoặc có triệu chứng nhưng khó phát hiện, thường bị nhầm lẫn với các bệnh tiêu hóa thông thường như táo bón, tiêu chảy, trĩ,... Các triệu chứng phổ biến của ung thư hậu môn có thể kể đến là: chảy máu hậu môn hoặc trực tràng; đau nhói và ngứa rát ở vùng hậu môn; xuất hiện khối u trong ống hậu môn; có chất nhầy chảy ra từ hậu môn; đại tiện thường xuyên hơn không tự chủ; đi phân lỏng và chảy nhớt;…
Ung thư hậu môn là bệnh ung thư có độ phổ biến thấp, rất hiếm gặp nhưng vô cùng nguy hiểm. Theo Hội Y học dự phòng Việt Nam, trung bình trên thế giới cứ 100.000 người sẽ có 1 ca mắc ung thư hậu môn. Ở Hoa Kỳ, có khoảng 8.200 ca mắc ung thư hậu môn và 1.100 ca ghi nhận tử vong do bệnh lý này mỗi năm. Trong khi đó, tại Thành phố Hồ Chí Minh - Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2012, ghi nhận 71 ca mắc ung thư hậu môn.
Ung thư hậu môn có thể phòng tránh được bằng việc tiêm vắc xin phòng HPV hoặc các biện pháp an toàn tình dục khác và có thể điều trị khi phát hiện ở giai đoạn sớm. Các phương pháp điều trị hiện nay bao gồm: xạ trị (dùng tia năng lượng để tiêu diệt các tế bào ung thư trong niêm mạc hậu môn); hóa trị (dùng hóa chất truyền vào cơ thể để ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư) hoặc hóa xạ trị (phương pháp kết hợp giữa 2 phương pháp điều trị trên).

3.4. Ung thư dương vật
Ung thư dương vật là tình trạng các tế bào ác tính trong dương vật phát triển ngoài tầm kiểm soát, gây ra các khối u ác tính ở vị trí da dương vật và bao quy đầu. 95% các trường hợp ung thư dương vật đều ở dạng ung thư biểu mô tế bào vảy, hình thành ở phần trên cùng của lớp da được gọi là biểu mô.
Tại khu vực châu Âu, ung thư dương vật rất hiếm gặp, tại Hoa Kỳ chỉ có khoảng 1% các trường hợp ung thư dương vật mỗi năm. Tuy nhiên, nó lại phổ biến ở các khu vực châu Phi, Nam Mỹ và châu Á. Điển hình tại Việt Nam, ung thư dương vật tương đối phổ biến, ở hai thành phố lớn của nước ta là Hà Nội và Hồ Chí Minh, tỷ lệ mắc ung thư dương vật lần lượt là 2.1/100.000 dân và 3,4% trên tổng số các ca ung thư. Và các trường hợp ung thư dương vật này đã tăng hơn 20% trong giai đoạn 1988 – 2018.
Ung thư dương vật phổ biến nhất ở các đối tượng trên 55 tuổi. Khi bị ung thư, dương vật người bệnh sẽ xuất hiện những thay đổi có thể thấy và cảm nhận rõ ràng, chẳng hạn như có khối u hoặc vết loét không đau (có thể chảy máu); sưng tấy và kích ứng ở đầu dương vật; da bọc dương vật thay đổi màu hoặc dày lên; xuất hiện các đốm/ vết mụn phẳng có màu nâu xanh; vị trí dưới bao quy đầu có mùi hôi; thân dương vật xuất hiện phát ban, có những vết sưng nhỏ, dễ vỡ;…
50% các trường hợp ung thư dương vật đều được xác định nguyên nhân là do một vài chủng virus HPV, chúng làm một hoặc một vài tế bào ở dương vật biến đổi thành tế bào ung thư, khiến chúng nhân lên nhanh chóng, vượt ngoài tầm kiểm soát, tích tụ dần và tạo thành một khối u, lấn át các tế bào khỏe mạnh, làm hỏng các mô và cơ quan khỏe mạnh.
Ở giai đoạn sơ khởi của bệnh, có thể điều trị được bằng cách ngăn chặn sự tiến triển của ung thư, nhưng khi tế bào ung thư di căn sang các mô và bộ phận khỏe mạnh khác của cơ thể, sẽ rất khó điều trị, trường hợp xấu nhất có thể gây tử vong. Các phương pháp hiện nay có thể chữa trị bệnh ung thư dương vật bao gồm: bôi kem thuốc lên dương vật (Bao gồm Fluorouracil và Imiquimod), loại bỏ mô viêm ở bao quy đầu, loại bỏ khối u bằng laser nhiệt độ cao, liệu pháp lạnh tiêu diệt khối u, phẫu thuật Mohs (liệu pháp loại bỏ từng lớp da ung thư cho đến khi chạm đến mô khỏe mạnh bên dưới) và xạ trị (tiêu diệt tế bào ung thư bằng chùm tia năng lượng X).

3.5. Ung thư vòm họng
Ung thư vòm họng là tình trạng xuất hiện khối u ác tính ở mô phía sau miệng và mũi, khu vực này nằm ngay phía trên vòm miệng, ở đáy hộp sọ. Đây là một bệnh lý về ung thư dễ dàng di căn sang các mô và bộ phận khác trên cơ thể nhất vì khi bệnh nhân hô hấp, không khí sẽ đi qua mũi, vòm họng và vào cổ họng trước khi đến phổi và lây lan sang các bộ phận lân cận.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ung thư vòm họng, có thể kể đến là virus Epstein-Barr, việc lạm dụng thực phẩm ướp muối, sử dụng các chất kích thích (thuốc lá, rượu bia,…), di truyền và nguyên nhân phổ biến nhất vẫn đến từ hình thức quan hệ tình dục qua đường miệng, khiến lây nhiễm một số chủng virus HPV, làm biến đổi chức năng của các tế bào ở vòm họng, gây ra ung thư.
Khi bị ung thư vòm họng, rất khó phát hiện trong giai đoạn đầu vì triệu chứng dễ bị nhầm lẫn với các bệnh lý thông thương khác về thần kinh như ù tai, nhức đầu, khó thở, nghẹt mũi, mất thính lực, cảm giác đầy tai, chảy máu cam, đau mặt, tê mặt, nhiễm trùng tai, khó nói, khó mở miệng,…
Ở Việt Nam, ung thư vòm họng chiếm tỷ lệ khá cao so với các bệnh lý về ung thư khác, chiếm đến 12% tỷ lệ người mắc ung thư vòm họng trong tổng số ca ung thư. Trong số đó, có tới 70% trường hợp được xác định là mắc ung thư vòm họng được phát hiện ở giai đoạn cuối, khiến cho việc điều trị trở nên vô cùng khó khăn. Đặc biệt, đàn ông có nguy cơ mắc ung thư vòm họng cao hơn phụ nữ gấp 3 lần.
Ở giai đoạn đầu của bệnh, có nhiều phương pháp có thể điều trị ung thư vòm họng hiệu quả như: sử dụng thuốc tiêm Cetuximab, phẫu thuật (cắt bỏ khối u ác tính bên trong vòm họng), hóa trị, xạ trị hoặc hóa xạ trị. Tuy nhiên, khi khối u đã di căn đến hộp sọ, mắt, dây thần kinh sọ, tuyến nước bọt hoặc phần dưới của cổ họng, tỷ lệ điều trị thành công là rất thấp, nguy cơ tử vong rất cao.

4. Làm sao để phát hiện sớm HPV 31 33 35
4.1. Xét nghiệm HPV
Các xét nghiệm lâm sàng đối với HPV được sử dụng cho các mục đích tầm soát, sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm tế bào học. Dựa trên kết quả các xét nghiệm HPV, các bác sĩ có thể phân loại và theo dõi được những bất thường trong cổ tử cung, phát hiện được những tổn thương tiền ung thư của tế bào biểu mô cổ tử cung.
4.2. Xét nghiệm Pap
Xét nghiệm Pap là một dạng xét nghiệm tế bào học được thực hiện thông qua các thủ thuật kiểm tra cổ tử cung ở phụ nữ. Các bác sĩ hoặc các chuyên gia sẽ thực hiện kiểm tra các tế bào cổ tử cung ở phần cuối hẹp, thấp hơn của tử cung nằm trên đỉnh âm đạo của phụ nữ. Kết quả kiểm tra sẽ dựa trên những so sánh sự thay đổi hiện tại của tế bào cổ tử cung để phát hiện ra những tế bào bất thường.
4.3. Chưa có phương pháp xét nghiệm HPV cho nam giới.
Đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có bất kỳ một phương pháp nào xét nghiệm HPV được phê duyệt cho nam giới. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC Hoa Kỳ) không khuyến nghị xét nghiệm HPV ở nam giới. Những xét nghiệm HPV dành cho nữ giới thường không cho ra kết quả hữu ích để đánh giá, sàng lọc các bệnh ung thư có liên quan đến virus HPV hoặc mụn cóc sinh dục ở nam giới.
Không có phương pháp nào xét nghiệm tầm soát ung thư dương vật và mụn cóc sinh dục ở cả nam và nữ giới. Do đó, các chuyên gia khuyên nên thực hiện kiểm tra hậu môn định kỳ hàng năm (xét nghiệm Pap hậu môn) đối với các đối tượng là nam giới lưỡng tính, đồng tính và những đối tượng bị nhiễm HIV bởi ung thư hậu môn có nguy cơ cao sẽ xảy ra ở nhóm đối tượng này.
5. Bị nhiễm hpv type 31 33 35 phải làm sao?
Hiện nay, không có phương pháp nào có thể điều trị khi đã bị nhiễm HPV nói chung và HPV type 31 33 35 nói riêng. Đây là 3 chủng virus HPV nguy hiểm, thuộc phân nhóm nguy cơ gây ung thư cao, nhưng không chắc chắn 100% rằng chúng sẽ gây ung thư. Tỷ lệ gây ung thư là cao hay thấp còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như hệ miễn dịch cơ thể. Khi hệ miễn dịch của cơ thể hoạt động tốt, khả năng tấn công và làm đột biết các gen gây hại cho tế bào của virus bị giảm đi đáng kể. Vì thế, khi bị nhiễm HPV type 31 33 35 cần giữ một tâm lý ổn định và thực hiện các phương pháp sau để kích thích hệ miễn dịch làm việc năng suất hơn:
- Đảm bảo chế độ dinh dưỡng khoa học, uống đủ lượng nước mỗi ngày;
- Thư giãn tinh thần, hạn chế tối đa tình trạng stress dẫn đến suy nhược cơ thể;
- Nâng cao sức khỏe, vận động và tập luyện thể dục thể thao đều đặn;
- Vệ sinh cơ thể sạch sẽ, đặc biệt là các bộ phận nhạy cảm, chứa dịch tiết như bộ phận sinh dục, răng, miệng, hậu môn,…
- Sử dụng biện pháp an toàn khi quan hệ, tốt nhất là không quan hệ cho đến khi virus HPV suy yếu và tự đào thải khỏi cơ thể.

Ngoài ra, cần phải ý thức được rằng HPV 31 33 35 sẽ có nguy cơ gây ra các bệnh lý về ung thư nguy hiểm, nhất là ung thư cổ tử cung, nên cần được thăm khám bác sĩ và tiến hành điều trị tiền ung thư cổ tử cung kịp thời. Trong trường hợp này, nữ giới cần làm xét nghiệm Pap định kỳ và theo dõi sát sao để có thể phát hiện ra các vấn đề trước khi ung thư phát triển. Các bệnh ung thư khác cũng trở nên dễ điều trị và ít tốn kém hơn nếu được phát hiện và điều trị từ sớm. Vì thế, cần chú ý theo dõi tình trạng sức khỏe của bản thân để hạn chế tối đa những trường hợp xấu nhất xảy ra.
6. Cách phòng ngừa virus HPV 31 33 35
- Tiêm ngừa vắc xin HPV
Tiêm ngừa vắc xin HPV có thể giúp tạo ra các kháng thể bảo vệ cơ thể người tiêm khỏi sự tấn công của các tuýp HPV nguy hiểm. Tại Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC, hiện đang có 2 loại vắc xin HPV có hiệu quả bảo vệ cao nhất trên thế giới hiện nay, bao gồm Gardasil và Gardasil 9.
Tuy nhiên, để phòng chủng virus HPV 31 33, cần tiêm vắc xin Gardasil 9 với khả năng bảo vệ người tiêm khỏi sự tấn công tàn bạo của 9 type virus HPV phổ biến là 6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52 và 58 có nguy cơ gây bệnh ung thư cổ tử cung, ung thư vòm họng, ung thư hậu môn và các biến chứng nguy hiểm khác với hiệu quả bảo vệ lên đến 94%. Gardasil 9 được áp dụng tiêm phòng cho các đối tượng là trẻ em gái, trẻ em trai, thanh niên nam nữ, cộng đồng LGBT, MSM,.. từ 9 đến 45 tuổi.
Tuy nhiên, vắc xin chỉ dự phòng, bảo vệ cơ thể khỏi sự lây nhiễm của virus HPV, hoàn toàn không có khả năng điều trị HPV, các bệnh lý và biến chứng do HPV gây ra. Vì thế, đã dương tính với HPV 31 33 35, dù có tiêm phòng cũng không có khả năng ngăn cản sự tấn công của 3 chủng virus này. Tuy nhiên, vắc xin Gardasil 9 vẫn có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi sự lây nhiễm của các type HPV nguy hiểm khác như HPV 16 và 18.

- Kiểm tra sức khỏe định kỳ
Thông qua các kết quả kiểm tra sức khỏe, có thể nắm bắt được tình trạng sức khỏe hiện tại của bản thân. Từ đó, có thể chủ động đưa ra các phương pháp xử lý kịp thời và hiệu quả, phòng tránh được nhiều bệnh lý và biến chứng nguy hiểm do 3 chủng virus HPV nguy cơ cao 31 33 35 gây ra. Vì thế nên tiến hành kiểm tra sức khỏe định kỳ 6 tháng 1 lần, bởi theo chu kỳ 6 tháng, cơ thể sẽ có nhiều biển đổi đáng kể.
Đối với nữ giới khi bước sang tuổi 21, cần ưu tiên tiến hành các phương pháp xét nghiệm sàng lọc, tầm soát ung thư cổ tử cung 3 năm 1 năm để kịp thời phát hiện bệnh ngay ở giai đoạn đầu, trước khi các triệu chứng của ung thư cổ tử cung xuất hiện và diễn biến trầm trọng hơn. Trong giai đoạn từ 30 đến 65 tuổi, vẫn nên duy trì việc xét nghiệm sàng lọc, tầm soát 3 năm hoặc 5 năm 1 lần. Đến giai đoạn 65 tuổi, nếu kết quả xét nghiệm bình thường, có thể ngừng thực hiện xét nghiệm tầm soát.
- Tình dục lành mạnh và an toàn
Đa số trong các trường hợp nhiễm virus HPV 31 33 35 đều được xác định do thói quen và quá trình quan hệ tình dục không an toàn. Vì thế, để giảm thiểu tối đa nguy cơ lây nhiễm 3 chủng virus HPV nguy cơ cao này, cần quan hệ tình dục lành mạnh và an toàn.
Không quan hệ tình dục với nhiều bạn tình và/hoặc quan hệ với bạn tình mà chưa nắm rõ được tình trạng sức khỏe. Cần duy trì mối quan hệ hôn nhân một vợ - một chồng an toàn và chung thủy.
Trong trường hợp phát sinh quan hệ tình dục ngoài ý muốn, cần có biện pháp quan hệ an toàn kịp thời như sử dụng bao cao su trong quá trình quan hệ, hệ chế tối đa việc tiếp xúc với dịch thể của đối phương và không quan hệ bằng miệng. Phương pháp này không hoàn toàn ngăn ngừa được nguy cơ lây nhiễm HPV 31 33 35 nhưng có thể giảm thiểu đáng kể được tình trạng lây nhiễm.
- Giữ vệ sinh cơ thể và bộ phận sinh dục
Cần chú ý giữ vệ sinh cơ thể sạch sẽ, nhất là bộ phận sinh dục và đặc biệt là sau khi quan hệ tình dục. Điều này sẽ giúp giảm thiểu được khả năng lây nhiễm 3 chủng virus HPV nguy cơ cao 31 33 35.
- Thói quen sống lành mạnh
Hệ miễn dịch khỏe mạnh là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc chống lại sự lây nhiễm của virus có hại. Vì thế, cần duy trì chế độ dinh dưỡng lành mạnh cũng thói quen sống khoa học để kích thích cơ thể sản sinh các tế bào miễn dịch có khả năng chống viêm nhiễm và hình thành nên hệ miễn dịch có phản ứng tốt cùng năng suất hoạt động cao.
7. Các câu hỏi thường gặp
- HPV type 31 33 35 có tự đào thải không?
CÓ THỂ. HPV type 31 33 35 có thể tự đào thải trong một khoảng thời gian nhất định mà không gây ra bất kỳ triệu chứng gì, đây thường là những trường hợp người nhiễm HPV type 31 33 35 có sức đề kháng tốt, hoạt động đủ mạnh để chống lại sự phát triển của virus. Bởi chủng virus này sẽ không tấn công ngay lập tức mà cần một khoảng thời gian nhất định để sinh sôi và phát triển trong cơ thể. Nếu hệ miễn dịch của người nhiễm virus có phản ứng tốt sẽ có thể khiến cho virus không thể tiếp tục sinh sôi và phát triển, khiến chúng tự đào thải.
Trong trường hợp HPV type 31 33 35 không được đào thải hoặc đào thải không thành công, chúng có khả năng gây các bệnh sinh dục nguy hiểm như ung thư cổ tử cung, ung thư vòm họng, ung thư hậu môn, ung thư dương vật,…
- HPV 31 33 35 có lây nhiễm khi hôn không?
CÓ THỂ. Mặc dù về mặt lý thuyết là có thể, nhưng vẫn chưa có bất kỳ nghiên cứu nào xác định chắc chắn mối liên hệ giữa nụ hôn và sự lây nhiễm HPV 31 33 35 nhưng sự tương tác giữa cơ quan dịch tiết với bộ phận sinh dục hoặc hôn cũng có thể lây nhiễm HPV 31 33 35. Nguy cơ này sẽ cao hơn khi hôn sâu hay “hôn kiểu Pháp” bởi vì đây là kiểu hôn mở miệng và chạm lưỡi, khiến cho việc tiếp xúc với tuyến nước bọt và da kề da nhiều hơn.

HPV 31 33 35 là nhóm các chủng HPV vô cùng nguy hiểm, có nguy cơ gây ung thư cao sau HPV 16 và 18. Những bệnh lý do những chủng virus này gây ra khiến cho sức khỏe người bệnh bị suy giảm trầm trọng, có thể đe dọa đến tính mạng và dẫn đến tử vong. Vì thế, cần tiêm vắc xin phòng HPV để chủ động bảo vệ sức khỏe của bản thân khỏi các căn bệnh vô cùng nguy hiểm, từ đó giải tỏa áp lực cho y tế dự phòng, giảm bớt gánh nặng cho xã hội.









