HPV tuýp 6 và 11 gây bệnh gì? Điều trị và phòng ngừa

10:51 28/04/2023

Quản lý Y khoa Vùng 1 - Đông Nam Bộ
Hệ thống tiêm chủng VNVC
HPV tuyp 6 va 11 là những chủng virus HPV nguy cơ thấp, nguy cơ gây ra những bệnh về ung thư nói chung và ung thư cổ tử cung nói riêng là rất thấp. Nhưng 2 chủng virus này vô cùng phổ biến, chúng được xác định là nguyên nhân của 90% trường hợp xuất hiện mụn cóc sinh dục. Vì thế, cần hiểu rõ về các bệnh lý do 2 chủng virus này gây ra và nắm bắt được các phương pháp điều trị và phòng ngừa để có thể chủ động trong việc đối phó với sự tấn công của chúng. Cùng VNVC tìm hiểu nhé.
1. HPV tuýp 6 và 11 khác nhau như thế nào?
1.1. HPV tuýp 6
HPV tuýp 6 là một chủng virus HPV nằm trong số hơn 100 chủng virus gây u nhú ở người – Human Papillomavirus Virus. Chủng virus này không thuộc nhóm 12 type HPV có nguy cơ cao, nó là một trong những chủng virus tương đối lành tính, hiếm khi dẫn đến ung thư. Tuy nhiên, HPV 6 có thể gây ra mụn cóc sinh dục và sùi mào gà ở cả hai giới, nếu không được chăm sóc cẩn thận và can thiệp y tế kịp thời sẽ gây ra các biến chứng nguy hiểm, có nguy cơ sinh ung thư dù rất hiếm. [1]

1.2. HPV tuýp 11
HPV tuýp 11 cũng là một chủng virus HPV thuộc nhóm nguy cơ sinh ung thư thấp và hiếm khi gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác. Tương tự như HPV 6, chủng HPV tuýp 11 có thể gây ra tình trạng mụn cóc sinh học và sùi mào gà. Tuy nhiên, HPV tuýp 11 lại là chủng virus có khả năng gây ra những thay đổi đối với tử cung nữ giới, có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng cho người bệnh là phụ nữ. [2]

Theo kết quả khảo sát kiểm tra dinh dưỡng và sức khỏe quốc gia được thực hiện vào giai đoạn 2003 – 2006 tại Hoa Kỳ, tỷ lệ nhiễm HPV nguy cơ thấp (HPV 6 và 11) cao nhất ở nhóm tuổi từ 14 đến 19, trong khi đó nhóm nguy cơ cao (HPV 16 và 18) cao nhất ở phụ nữ từ 20 đến 24 tuổi. Nhóm virus HPV nguy cơ cao là nhóm gồm những chủng virus nguy hiểm, có nguy cơ gây ung thư, đặc biệt là ung thư cổ tử cung ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe và tính mạng của người bệnh.
2. HPV type 6 và 11 gây nên những bệnh gì?
Tuy là 2 chủng virus HPV nguy cơ thấp nhưng HPV type 6 và 11 gây ra nhiều bệnh lý ảnh hưởng trực tiếp đến những sinh hoạt bình thường của người bệnh.
2.1. Mụn cóc sinh dục
Mụn cóc sinh dục là một căn bệnh lây qua đường tình dục do virus HPV gây ra, phổ biến nhất là HPV type 6 và 11. Nguyên nhân lây truyền bệnh rất đơn giản, chúng có thể lây nhiễm thông qua sự tiếp xúc niêm mạc, các vết thương hở ở da, dùng chung đồ cá nhân với người bệnh và có thể lây từ mẹ sang con. Bệnh lý này biểu hiện qua sự phát triển của các mô ở niêm mạc hậu môn hoặc cơ quan sinh dục, gây ra sự xuất hiện của các khối u sần xuất hiện trên bề mặt da ở vị trí các mô phát triển.
Ở giai đoạn đầu, bệnh thường biểu hiện qua việc xuất hiện các nốt mụn cóc màu hồng hoặc màu tương tự màu da ở khu vực bộ phận sinh dục cả nam và nữ, khi sờ sẽ có cảm giác thô ráp, cứng, sần sùi. Ngoài bộ phận sinh dục hay hậu môn, mụn cóc sinh dục còn có thể mọc ở các vị trí khác trên bề mặt da người bệnh như lòng bàn tay và lòng bàn chân. Những nốt mụn này sẽ không gây ngứa ngáy hay đau rát nhưng sẽ gây ra cảm giác cực kỳ khó chịu khi mọc ở những bộ phận nhạy cảm. Trong trường hợp tác động mạnh lên các nốt mụn đó sẽ khiến chúng bị bể hay bị hở, gây ra hiện tượng chảy dịch, chảy máu và có nguy cơ nhiễm trùng.
Tuy mụn cóc sinh dục là bệnh lý lành tính, không gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh nhưng nó gây ra những vấn đề nhạy cảm, cản trở quá trình sinh hoạt của người bệnh. Khi mụn cóc sinh dục mọc lên ở bộ phận sinh dục và các khu vực xung quanh, nếu không được vệ sinh đúng cách, sẽ gây ra các ổ viêm nhiễm ngứa ngáy, khó chịu, dịch mủ chảy ra từ các nốt mụn cóc khiến cho bộ phận sinh dục luôn ẩm ướt, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng như viêm bao quy đầu, viêm tinh hoàn, viêm ống dẫn tinh hay viêm niệu đạo ở nam giới, ở nữ giới có thể xuất hiện tình trạng viêm âm đạo hay viêm dính vòi tử cung.
Các vấn đề trên do mụn cóc sinh dục gây ra có thể trực tiếp ảnh hưởng đến chức năng sinh sản của cả nam giới và nữ giới, làm suy giảm chất lượng tình dục và gây ra các vấn đề tiêu cực cho tâm lý người bệnh như thường xuyên lo lắng, sợ hãi, tự ti và hồi hộp.

2.2. Sùi mào gà
Sùi mào gà là bệnh lây nhiễm qua đường tình dục rất phổ biến, còn được biết đến là bệnh mồng gà, có biểu hiện đặc trưng là những nốt sùi nhỏ, mềm, mọc thành từng mảng, tạo thành các khối u sần sùi giống như súp lơ hoặc mào gà, gây ra những cảm giác ngứa ngáy, đau đớn, khó chịu. Sùi mào gà có thể xuất hiện ở các vị trí bên trong và/ hoặc bên ngoài đường sinh dục như: ở thân dương vật, bìu hay lỗ sáo, rãnh quy đầu, xung quanh hậu môn, vùng bẹn, âm đạo, cổ tử cung,…thậm chí sùi mào gà có thể xuất hiện ở vùng miệng nếu quan hệ được thực hiện thông qua con đường này.
HPV type 6 và 11 là hai chủng virus HPV chính gây ra sùi mào gà và nặng hơn là sùi mào gà khổng lồ - một dạng ung thư tế bào vảy nhưng rất hiếm gặp. Bệnh có đặc điểm xâm lấn xuống lớp trung bì của da nên rất khó phục hồi hoặc phục hồi trong một khoảng thời gian rất dài, phương pháp điều trị cũng rất khó khăn.
Khác với mụn cóc sinh dục, sùi mào gà là căn bệnh nguy hiểm, có khả năng lây truyền mạnh mẽ và nhanh chóng, khiến cho người bệnh cảm thấy khó chịu, tự ti, đau đớn,… Trong trường hợp bệnh lý không được phát hiện và điều trị kịp thời và đúng phác đồ, sùi mào gà có thể phát triển thành nhiều biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người bệnh.
Các biến chứng nguy hiểm do sùi mào gà gây ra có thể kể đến là:
- Ung thư: Sùi mào gà có nguy cơ phát triển thành ung thư ở cả nam và nữ giới như ung thư cổ tử cung, vòm họng, cổ họng, hậu môn, dương vật, âm đạo,…
- Ảnh hưởng đến thai kỳ: Trong quá trình mang thai, nồng độ hormone Estrogen của phụ nữ tăng cao, đây là yếu tố xúc tác khiến cho các cụm sùi mào gà lan rộng hơn, phình to hơn và dễ gây chảy máu hơn. Triệu chứng xấu đi của sùi mào gà sẽ khiến cho thai phụ khó khăn trong việc đi vệ sinh và vệ sinh vùng kín, sự co giãn của mô âm đạo bị hạn chế, quá trình sinh sản tự nhiên của thai phụ bị cản trở. Trong một số ít trường hợp, trẻ sinh ra trong giai đoạn người mẹ mắc bệnh sùi mào gà có thể có nguy cơ bị u nhú thanh quản, lây sang khí quản, phổi và gây tắc nghẽn đường hô hấp, gây ra tử vong.
- Ảnh hưởng đến khả năng sinh sản: Sùi mào gà có thể làm tắc niệu đạo, tắc nghẽn ống dẫn tinh, biến dạng dương vật, ung thư cổ tử cung,… làm cản trở khả năng sinh sản của cả nam giới và nữ giới.

2.3. U nhú đường hô hấp tái phát (RRP)
U nhú đường hô hấp tái phát là kết quả của việc truyền nhiễm chủng virus HPV type 6 và 11 từ đường sinh dục sang đường hô hấp, vị trí phổ biến nhất là ở thanh quản trên dây thanh âm, thường gọi là u nhú thanh quản. RRP đặc trưng bởi các triệu chứng về đường hô hấp như khàn giọng, khó thở, khóc yếu, tắc nghẽn đường hô hấp,…
RRP có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến và có xu hướng diễn ra nghiêm trọng hơn cả là ở đối tượng trẻ em từ 1 đến 4 tuổi bởi tốc độ phát triển của các khối u trong thanh quản là rất nhanh, trong khi kích thước thanh quản của trẻ nhỏ lại hẹp nên sẽ khiến cho trẻ nhỏ mắc RRP cảm thấy khó khăn trong hô hấp, khó nuốt thực phẩm và gây ra ho mãn tính.
U nhú đường hô hấp tái phát thông thường sẽ không gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh nhưng trong trường hợp các khối u phát triển mạnh hơn sẽ gây cản trở hô hấp, đe dọa đến tính mạng. Khi thực hiện các phương pháp loại bỏ các khối u trong đường hô hấp, chúng vẫn có xu hướng tái phát nhanh chóng và nhiều lần.

3. Dương tính với HPV tuýp 6 và 11 có nguy hiểm không?
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia nghiên cứu, kết quả xét nghiệm dương tính với HPV tuýp 6 và 11 không nguy hiểm như các chủng virus HPV khác nằm trong nhóm 12 Type HPV nguy cơ cao.
Tuy nhiên, 2 chủng virus HPV này vẫn gây ra các triệu chứng vô cùng khó chịu, tạo ra các cảm xúc tâm lý tiêu cực như cảm giác đau đớn, tự ti, ngứa ngáy, thậm chí còn gây ra các vấn đề nghiêm trọng về khả năng, quá trình sinh sản và quan hệ. Trong nhiều trường hợp các triệu chứng phát triển mạnh, có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng người bệnh.
4. HPV 6 và 11 lây nhiễm qua đường nào?
Nhắc đến HPV nói chung và chủng virus HPV 6 và 11 nói riêng, đường lây nhiễm phổ biến nhất là đường tình dục. Quá trình quan hệ không sử dụng các biện pháp an toàn, không đảm bảo vấn đề vệ sinh, quan hệ với nhiều bạn tình,… đều là các nguyên nhân chính có thể lây nhiễm virus HPV 6 và 11.
Ngoài ra, việc tiếp xúc với bộ phận sinh dục của bạn tình bằng tay hoặc bằng miệng cũng có nguy cơ cao lây nhiễm 2 chủng virus trên, bởi HPV khu trú và xâm nhập chủ yếu vào các vùng niêm mạc ẩm ướt, dịch nhầy, vùng thượng bì và ở lớp biểu mô da.
HPV 6 và 11 còn lây nhiễm qua đường tiếp xúc. Một trong những biểu hiện phổ biến nhất của việc nhiễm virus HPV 6 và 11 đó là nổi mụn cóc sinh dục, trong khi đó những nốt mụn cóc này rất dễ vỡ và chúng chính là những nhân tố truyền nhiễm vô cùng mạnh mẽ, có thể lây lan nhanh chóng qua những sự tiếp xúc trực tiếp với người nhiễm bệnh.
Nguy hiểm hơn nữa là 2 chủng virus HPV này có thể lây nhiễm cho người khác ngay cả khi họ chạm vào một vật bất kỳ đã tiếp xúc trực tiếp với mụn cóc mà không cần phải tiếp xúc trực tiếp với cơ thể người nhiễm bệnh. Chẳng hạn như việc dùng chung dụng cụ bấm móng, kim bấm sinh thiết, đồ lót có chứa virus hoặc tiếp xúc với vòi hoa sen công cộng ở bể bơi, bàn ghế ở quán nước,…
Lây truyền từ mẹ sang con cũng là một trong những đường lây truyền của HPV 6 và 11. Tuy nhiên, chúng không gây sẩy thai và khả năng lây nhiễm HPV sang con rất thấp. Nhưng khi những nhiễm trùng HPV lây lan từ mẹ sang con xảy ra, trong một số trường hợp sẽ gây ra sự phát triển ung thư trong thanh quản (vòm họng) của em bé ngay khi vừa sinh ra đời.
5. Cách phòng ngừa
- Tiêm ngừa vắc xin HPV
Vắc xin tiêm phòng HPV là phương pháp an toàn và hiệu quả nhất ở thời điểm hiện tại. Vắc xin phòng HPV hoạt động dựa trên cơ chế tạo ra hệ miễn dịch để cơ thể chống lại sự xâm nhập và gây hại của virus HPV. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vắc xin tiêm phòng HPV hiện nay được áp dụng tiêm phòng cho các đối tượng là trẻ em và người lớn có độ tuổi từ 9 đến 45 tuổi để phòng tránh mắc các bệnh tình dục nguy hiểm như ung thư cổ tử cung, ung thư vòm họng, ung thư hậu môn,…
Trường hợp đã dương tính với HPV 6 và 11 CÓ THỂ tiêm phòng vắc xin ngừa HPV, bởi việc này vẫn sẽ đem lại nhiều hiệu quả nhất định. Việc tiêm phòng HPV không có tác dụng điều trị các triệu chứng đã có sẵn, không giúp cải thiện tình trạng bệnh lý do HPV 6 và 11 gây ra nhưng giúp ngăn ngừa các chủng virus HPV nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung như HPV 16 và 18.
Không nên chủ quan và thờ ơ với sức khỏe, tính mạng của bản thân, tiêm phòng càng sớm, hiệu quả bảo vệ của vắc xin càng cao.

- Kiểm tra sức khỏe định kỳ
Nên kiểm tra tình trạng sức khỏe định kỳ để thông qua kết quả kiểm tra có thể nắm bắt được hiện trạng sức khỏe của bản thân, liệu bản thân có đang dương tính với các chủng virus HPV nói chung và 2 chủng virus HPV 6 và 11 nói riêng không. Từ đó, có thể chủ động đưa ra phác đồ điều trị kịp thời và hiệu quả, phòng tránh được nhiều căn bệnh nguy hiểm do chủng virus này gây ra. Nên kiểm tra sức khỏe định kỳ 6 tháng 1 lần, bởi thông thường cứ chu kỳ 6 tháng thì cơ thể sẽ có nhiều biến đổi đáng kể, cần được kiểm tra.
Riêng đối phụ nữ khi đã bước sang tuổi 21, nên tiến hành các kiểm tra tầm soát ung thư cổ tử cung 3 năm 1 lần để kịp thời phát hiện ra ung thư cổ tử cung, trước khi triệu chứng của căn bệnh xuất hiện. Trong giai đoạn từ 30 đến 65 tuổi, phụ nữ vẫn nên duy trì việc tầm soát xét nghiệm 3 năm 1 lần hoặc 5 năm 1 lần. Nếu cho ra kết quả bình thường cho đến giai đoạn 65 tuổi thì có thể ngừng thực hiện xét nghiệm tầm soát.
- Tình dục lành mạnh và anh toàn
Hầu hết trong các trường hợp nhiễm virus HPV 6 và 11 đều được xác định là do thói quen và quá trình quan hệ tình dục kém lành mạnh. Vì thế, để giảm thiểu tối đa nguy cơ lây nhiễm 2 chủng virus HPV này, cần quan hệ tình dục lành mạnh và an toàn.
Tuyệt đối không thực hiện quan hệ với nhiều bạn tình hoặc quan hệ với bạn tình chưa nắm rõ được tình trạng sức khỏe, cần duy trì mối quan hệ hôn nhân một vợ - một chồng chung thuỷ và an toàn.
Ngoài ra, khi quan hệ tình dục phát sinh ngoài ý muốn, cần có biện pháp an toàn kịp thời như sử dụng bao cao su, không quan hệ bằng miệng và hạn chế tối đa việc tiếp xúc với tuyến nước bọt và dịch thể của đối phương. Cách làm này không hoàn toàn ngăn chặn được nguy cơ lây nhiễm HPV 6 và 11 nhưng có thể giảm thiểu tối đa được tình trạng lây nhiễm.
- Giữ vệ sinh cơ thể và bộ phận sinh dục
Giữ vệ sinh cơ thể, đặc biệt là bộ phận sinh dục rất quan trọng trong việc ngăn ngừa sự lây nhiễm của 2 chủng virus HPV 6 và 11, nhất là sau khi quan hệ tình dục. Sau khi quan hệ, nên tiến hành vệ sinh sạch sẽ.
- Thói quen sống lành mạnh
Duy trì thói quen sống lành mạnh cùng chế độ dinh dưỡng khoa học sẽ kích thích cơ thể sản sinh các tế bào miễn dịch có khả năng chống viêm nhiễm và hình thành nên hệ miễn dịch có phản ứng tốt, hỗ trợ cơ thể chống lại sự lây nhiễm của virus có hại.
6. Cách điều trị các bệnh gây nên bởi HPV type 6 và 11
6.1. Điều trị mụn cóc sinh dục
Có thể điều trị mụn cóc sinh dục bằng nhiều liệu pháp khác nhau tùy vào tình trạng bệnh lý hiện tại:
- Liệu pháp áp lạnh: Thực hiện đóng băng các nốt mụn cóc bằng nitơ lỏng, nhằm ngăn chặn sự lây lan, phát triển và phục hồi của các tế bào nhiễm virus.
- Liệu pháp phẫu thuật cắt bỏ mụn cóc sinh dục.
- Sử dụng laser CO2 đốt cháy các nốt mụn, loại bỏ các nốt mụn trên da, ngăn chặn sự lây lan của chúng. Tuy nhiên, đốt các nốt mụn chỉ có thể điều trị các triệu chứng ngoài da, không tiêu diệt triệt để virus HPV, vì thế sùi mào gà có thể tái phát sau khi đã được cắt bỏ.
- Điều trị bằng điện cực, dùng dòng điện để phá hủy các nốt mụn cóc sinh dục, tuy nhiên phương pháp này gây ra cảm giác đau đớn cho người bệnh trong quá trình điều trị và thời gian phục hồi các tổn thương cũng lâu hơn so với các phương pháp khác.
- Phương pháp ALA-PDT, đây là phương pháp điều trị mụn cóc sinh dục hàng đầu hiện nay, phương pháp được thực hiện dựa trên cơ chế giao động cùng pha của ánh sáng tạo ra các bước sóng khác nhau, từ đó chọn ra bước sóng thích hợp, kết hợp sử dụng chất cảm quang và oxy để ngăn chặn sự lan rộng và sinh trưởng của các nốt mụn cóc. ALA-PDT được đánh giá là phương pháp an toàn, nhanh chóng nhất hiện nay, không gây đau đớn, thời gian phục hồi các tổn thương nhanh chóng hơn và khả năng tái phát cũng rất thấp.
- Điều trị mụn cóc sinh học bằng thuốc: Một số loại thuốc có thể được sử dụng bao gồm thuốc bôi Podophyllum, thuốc bôi Axit Bichloracetic, Axit Trichloroacetic nồng độ cao, kem bôi Imiquimod và 5 – Fluorouracil, thuốc tiêm Interferon Alpha N3.
6.2. Điều trị sùi mào gà
Hiện nay, có nhiều phương pháp để xử lý các cụm sùi mào gà cho cả nam và nữ giới, bao gồm: Phương pháp điều trị sùi mào gà bằng thuốc bôi hoặc tiêm; các phương pháp tác động vật lý, tác động nhiệt để phá hủy sùi mào gà;…
- Điều trị bằng thuốc Podophyllotoxin (podofilox)
Phương pháp điều trị này có khả năng gây độc tế bào tại chỗ bôi thông qua cơ chế làm cho các tế bào nhiễm virus HPV ngừng phân chia, khiến cho mô tế bào đó bị hoại tử và tiêu biến. Thuốc Podophyllotoxin được dùng để điều trị những u nhú lành tính ngoài bề mặt da, chống chỉ định bôi trên các tổn thương bên trong như cổ tử cung, vòm họng, niệu đạo, vết thương hở và phụ nữ có thai.
Thực hiện thoa thuốc Podophyllotoxin ở dạng chế phẩm dung dịch hoặc dạng kem ngoài da trên diện tích không quá 10cm2, thoa 2 lần/ngày và trong 3 ngày liên tiếp, nghỉ cách quãng 4 ngày. Mỗi đợt điều trị theo phương pháp này kéo dài khoảng từ 4 đến 5 tuần. Tác dụng phụ khi thoa thuốc Podophyllotoxin này là đau rát, kích ứng…

- Phương pháp phá hủy sùi mào gà
- Liệu pháp áp lạnh: Với liệu pháp này, các cụm sùi mào gà sẽ được đóng băng bằng nitơ lỏng có nhiệt độ -196oC để đóng băng các tế bào bị nhiễm virus HPV, làm các tế bào này không thể lây lan, phát triển và phục hồi. Liệu pháp áp lạnh an toàn với thai phụ, giá thành dễ tiếp cận nhưng lại gây ra một số tác dụng phụ như hoại tử mô, xuất hiện bọng nước, đau đớn và để lại sẹo ở vị trí phá hủy.
- Phương pháp tác động vật lý: Phương pháp này sử dụng các tác động vật lý như cắt, nạo, đốt laser CO2, đốt điện,… để phá hủy các tổn thương do sùi mào gà gây ra. Trong đó, phương pháp đốt laser CO2 là phổ biến và được sử dụng rộng rãi hơn cả vì có rất nhiều ưu điểm trong việc điều trị như có thể chủ động kiểm soát độ sâu vết đốt, giữ được cấu trúc giải phẫu, ít gây chảy máu,…
- Chấm axit Bichloroacetic (BCA), Trichloroacetic (TCA) nồng độ cao, từ 80 đến 90% vào đúng nốt sùi mào gà dạng sẩn định kỳ hàng tuần (tối đa 10 tuần).
- Sử dụng các thuốc điều hòa miễn dịch
Các thuốc điều hòa miễn dịch dạng tiêm hoặc dạng bôi như Sinecatechin, Imiquimod, Interferon,… có thể sử dụng để điều trị sùi mào gà ở cả nam giới và nữ giới. Với các thuốc bôi, sau khi được bác sĩ hướng dẫn, người bệnh có thể tự thực hiện tại nhà với thời gian điều trị từ 8 đến 16 tuần.
6.3. Điều trị u nhú đường hô hấp tái phát
Có thể dùng phương pháp điều trị ngoại khoa như vi phẫu thuật mở khí quản hoặc cắt bỏ các khối u nhú. Đường hô hấp, đặc biệt là thanh quản có vị trí ẩm ướt, là môi trường thuận lợi cho các khối u nhú phát triển, lây lan và tái phát rất nhanh chóng.
Thuốc kháng vi rút như Cidofovir hoặc thuốc chống ung thư như Bevacizumab cũng có thể sử dụng để thoái triển các u nhú đường hô hấp.
Ngoài ra, có thể sử dụng phương pháp phẫu thuật điều trị bằng bằng tia laser hoặc liệu pháp quang động lực để rút ngắn thời gian điều trị, phục hồi và hạn chế tối đa các tác dụng phụ gây ra như đau đớn, ngứa rát hay chảy máu. Liệu pháp quang động lực hay còn được gọi là PDT, là liệu pháp sử dụng chất nhạy quang hoặc chất cảm quang (PS) và ánh sáng có bước sóng thích hợp, cùng với sự có mặt của oxy, từ đó gây độc, hủy mô và làm chết tế bào nhiễm virus.
7. Các câu hỏi thường gặp
- HPV type 6 và 11 có gây ung thư không?
CÓ THỂ. Hai chủng virus HPV type 6 và HPV type 11 không gây ra ung thư nhưng lại là nguyên nhân chính và phổ biến nhất gây ra mụn cóc sinh dục ở người mắc bệnh.
Tuy nhiên, khi nhận kết quả xét nghiệm dương tính với HPV type 6 và 11, không nên chủ quan trước chủng virus này vì đã có một số ít các trường hợp dương tính với virus HPV 6 hoặc/và HPV type 11 mắc ung thư cổ tử cung do không chủ quan, không chăm sóc tốt tình trạng sức khỏe của bản thân.. Vì thế, mức độ nguy hiểm và chủng virus HPV type 6 và 11 có nguy cơ gây ung thư hay không phụ thuộc nhiều vào mức độ người bệnh quan tâm tới sức khỏe bản thân. Trong trường hợp người bệnh xuất hiện các triệu chứng bất thường, cần nhanh chóng tìm đến các cơ sở y tế uy tín gần nhất để tiến hành kiểm tra, xét nghiệm, đưa ra chẩn đoán và phác đồ điều trị phù hợp, kịp thời.
- HPV type 6 và 11 có tự đào thải không?
CÓ THỂ. HPV type 6 và 11 có thể tự đào thải trong một khoảng thời gian nhất định mà không gây ra bất kỳ triệu chứng gì, khoảng thời gian từ khi lây nhiễm HPV type 6 và 11 cho đến khi 2 chủng virus này tự đào thải hoàn toàn khỏi cơ thể người bệnh có thể kéo dài trong vòng 2 năm. Trong trường hợp HPV type 6 và 11 không được đào thải hoặc đào thải không thành công, chúng có khả năng gây các triệu chứng điển hình như mụn cóc sinh dục, sùi mào gà hay u nhú đường hô hấp tái phát (RRP).
- Các tổn hại từ các bệnh do HPV 6 và 11 gây ra là vĩnh viễn hay tạm thời?
VĨNH VIỄN. Các triệu chứng bệnh gây ra bởi 2 chủng virus HPV 6 và 11 đều chưa có phương pháp điều trị triệt để, vẫn tồn tại nguy cơ tái phát cao. Một khi 2 chủng virus trên xâm nhập và không được đào thải khỏi cơ thể, sẽ gây ra các chứng bệnh điển hình không thể điều trị dứt điểm và virus sẽ tồn tại vĩnh viễn trong cơ thể đó.
Theo các chuyên gia Nam học của Hệ thống Bệnh viện đa khoa Tâm Anh, sùi mào gà là do virus gây ra nên không thể loại bỏ hoàn toàn chúng, người bệnh sẽ vĩnh viễn chịu các tổn hại từ các bệnh do HPV 6 và 11 gây ra. Các phương pháp điều trị hiện nay chỉ dừng lại ở mục tiêu loại bỏ các triệu chứng của bệnh là các nốt sùi, không thể triệt tiêu virus gây bệnh.

HPV tuyp 6 va 11 là 2 chủng virus tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến ung thư nếu người nhiễm chủ quan, không chăm sóc các tổn thương do virus gây ra đúng cách, không điều chỉnh lối sống phù hợp với tình trạng bệnh lý. Vì thế, cần tiêm phòng vắc xin HPV cho trẻ em và người lớn từ 9 đến 45 tuổi để bảo vệ cơ thể khỏi sự tấn công và gây hại của các chủng virus HPV nguy hiểm.









