Thuốc kháng sinh điều trị phế cầu được bác sĩ áp dụng vào phác đồ

Thuốc kháng sinh là liệu pháp quan trọng trong quá trình điều trị nhiễm trùng do phế cầu khuẩn gây ra. Vậy thuốc kháng sinh điều trị phế cầu được bác sĩ áp dụng theo phác đồ nào? hiệu quả ra sao? Cùng chuyên gia tìm hiểu chi tiết trong bài viết dưới đây!

BS.CKI Nguyễn Lê Nga - Quản lý Y khoa vùng 1 miền Bắc, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho biết: “Cho đến năm 1970, các chủng phế cầu khuẩn đều nhạy với hầu hết các loại thuốc kháng sinh được sử dụng trong điều trị bệnh do phế cầu khuẩn gây ra. Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1990 đã xuất hiện nhiều chủng phế khuẩn đột biến, có khả năng kháng kháng sinh, dẫn đến giảm ái lực liên kết với các tác nhân này, khiến hiệu quả kém hơn và làm cho quá trình điều trị nhiễm trùng phế cầu trở nên phức tạp hơn.”

kháng sinh điều trị phế cầu

Nguyên tắc để lựa chọn kháng sinh điều trị phế cầu

Lựa chọn thuốc kháng sinh điều trị phế cầu sẽ phụ thuộc vào hiệu quả đáp ứng của thuốc với vi khuẩn phế cầu, mức độ nghiêm trọng của tình trạng nhiễm trùng, độ tuổi,  tiền sử dị ứng của bệnh nhân và một số yếu tố khác. 

Theo các chuyên gia y tế, kháng sinh là nền tảng của liệu pháp điều trị các tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp. Thuốc kháng sinh can thiệp vào sự phát triển của vi khuẩn bằng nhiều cơ chế khác nhau, bao gồm phá hoại tính toàn vẹn của thành tế bào, can thiệp vào quá trình tổng hợp protein của vi khuẩn hoặc các con đường trao đổi chất thông thường. (1)

Phương pháp kháng sinh được sử dụng sẽ thay đổi tùy theo mức độ nghiêm trọng của bệnh cấp tính, độ tuổi của bệnh nhân bị ảnh hưởng, sự hiện diện của nhiều bệnh đi kèm và các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng do các tác nhân gây bệnh cụ thể. Đối với việc sử dụng kháng sinh khi điều trị phế cầu, các chuyên gia y tế sẽ thực hiện theo các nguyên tắc “4 đúng” sau:

  • Đúng thuốc: Việc lựa chọn thuốc kháng sinh đúng phụ thuộc hoàn toàn vào yếu tố người bệnh (độ tuổi, tiền sử bệnh, mức độ nhiễm trùng) và yếu tố vi khuẩn (nhiễm trùng loại vi khuẩn nào, mức độ nhảy của vi khuẩn với thuốc kháng sinh, tỷ lệ sinh sôi của vi khuẩn kháng thuốc). Khâu thực hiện này cần được khám sàng lọc và hoàn toàn tuân theo chỉ định của bác sĩ;
  • Đúng liều: Sau khi đã xác định thuốc kháng sinh được dùng, bác sĩ sẽ chỉ định liều dùng dựa vào các yếu tố như độ tuổi, cân nặng và tình trạng bệnh lý. Do đó, liều dùng của kháng sinh ở mỗi bệnh nhân sẽ hoàn toàn khác nhau. Người bệnh cần tuân thủ tuyệt đối liệu trình được bác sĩ đặt ra;
  • Đúng thời gian: Độ dài của phác đồ điều trị kháng sinh sẽ phụ thuộc vào tình trạng, mức độ, vị trí nhiễm khuẩn cũng như sức đề kháng của người bệnh. Các trường hợp nhiễm khuẩn nhẹ và trung bình thì thời gian điều trị kháng sinh dao động từ 7 - 10 ngày, trường hợp thấp hơn có thể chỉ cần 3 - 5 ngày. Đối với trường hợp nặng sẽ phải mất thời gian lâu hơn;
  • Đúng cách: Sử dụng đúng đường dùng như đường uống hoặc đường tiêm. Việc chỉ định đường dùng kháng sinh phải tuân theo chỉ định của bác sĩ.
kháng sinh điều trị phế cầu cần được chỉ định của bác sĩ
Thuốc kháng sinh điều trị phế cầu cần được sử dụng theo chỉ định của bác sĩ.

Thuốc kháng sinh điều trị phế cầu theo vị trí bệnh

Bệnh do phế cầu khuẩn gây ra có thể điều trị hiệu quả và không xuất hiện biến chứng nếu được phát hiện và dùng thuốc kháng sinh sớm. Tuy nhiên, chỉ nên dùng kháng sinh khi có chỉ định của bác sĩ và tuân theo đúng liệu trình sử dụng. Một số loại thuốc kháng sinh được dùng trong các trường hợp cụ thể như sau:

1. Thuốc kháng sinh điều trị viêm phổi do phế cầu 

Theo các chuyên gia y tế, viêm phổi do phế cầu khuẩn thường được điều trị bằng các loại thuốc kháng sinh điển hình như Amoxycillin, Doxycycline hoặc Clarithromycin.

  • Đối với các trường hợp nhiễm trùng nặng: Kháng sinh thường được chỉ định tiêm tĩnh mạch như Amoxicillin, Doxycycline. Trong một số tình huống, có thể sử dụng phương pháp điều trị bằng đường uống khi bệnh viêm phổi đã khỏi về mặt lâm sàng và bệnh nhân không xuất hiện triệu chứng sốt;
  • Đối với các trường hợp nhiễm trùng nhẹ đến trung bình: Thuốc kháng sinh amoxicillin 500mg-1g được sử dụng trong vòng 10 - 14 ngày. Những bệnh nhân dị ứng với Penicillin, một lựa chọn thay thế phù hợp là Erythromycin 500mg hoặc Clarithromycin 500mg. Các phương pháp điều trị thay thế cho dị ứng penicillin khác bao gồm Erythromycin hoặc Cefuroxime (nhưng lưu ý có thể xuất hiện 10% nguy cơ dị ứng chéo). (2)

Cần lưu ý, liều lượng Amoxicillin thích hợp để điều trị các chủng phế cầu khuẩn  kháng thuốc trung gian. Thuốc Clarithromycin có thể thay thế cho những người không dung nạp Erythromycin đường uống và cũng có lợi ích khi dùng liều hai lần mỗi ngày.

2. Thuốc kháng sinh điều trị viêm màng não do phế cầu

Theo hướng dẫn của Hiệp hội các bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA), phương pháp điều trị ban đầu cho viêm màng não do phế cầu khuẩn nên là thuốc Vancomycin và Cephalosporin thế hệ thứ 3.

Để điều trị viêm màng não do phế cầu khuẩn ở trẻ em bị dị ứng với Beta-lactam, nên cân nhắc kết hợp Vancomycin và Rifampin cho trẻ. Không nên thử dùng đơn trị liệu với thuốc Vancomycin vì khó đạt được nồng độ diệt khuẩn đủ và kéo dài trong dịch não tủy. Đồng thời, không nên thử dùng đơn trị liệu với Rifampin do khả năng kháng thuốc nhanh chóng phát triển trong trường hợp này.

Ở những bệnh nhân bị nhiễm các chủng phế cầu khuẩn nhạy cảm với Rifampin, nên cân nhắc bổ sung Rifampin sau 48 giờ nếu tình trạng lâm sàng trở nên tồi tệ hơn mặc dù đã điều trị bằng Vancomycin và Cefotaxime/Ceftriaxone, đồng thời chọc dịch não tủy nhiều lần vẫn cho kết quả nuôi cấy dương tính.

Cần lưu ý, các khuyến cáo về điều trị viêm màng não do vi khuẩn ở người lớn cũng tương tự như ở trẻ em. Vancomycin không phải lúc nào cũng có hiệu quả chống lại viêm màng não do phế cầu khuẩn. Do đó, những người bị viêm màng não thường được dùng Ceftriaxone hoặc Cefotaxime , Rifampin hoặc cả hai, cũng như Vancomycin. (3)

3. Thuốc kháng sinh điều trị viêm tai giữa và viêm xoang

Hướng dẫn do Viện Hàn lâm Nhi khoa và Bác sĩ Gia đình Hoa Kỳ cho biết, để điều trị viêm tai giữa do phế cầu khuẩn cần sử dụng thuốc kháng sinh Amoxicillin 80 - 90 mg/kg/ngày hoặc Amoxicillin-Clavulanate (Amoxicillin 90 mg/kg/ngày với Clavulanate 6,4 mg/kg/ngày). Một số loại thuốc kháng sinh thay thế bao gồm Cefdinir, Cefuroxime, Cefpodoxime hoặc Ceftriaxone.

Các loại kháng sinh thay thế này có hiệu quả khác nhau đối với các tác nhân gây bệnh khác nhau được biết là gây viêm tai giữa. Dữ liệu của Hoa Kỳ về khả năng nhạy cảm trong ống nghiệm của vi khuẩn phế cầu với Cefdinir và Cefuroxime lần lượt là 70 -n 80%, so với 84 - 92% đối với Amoxicillin.

Những bệnh nhân không cải thiện trong vòng 48 - 72 giờ, bác sĩ sẽ đánh giá lại và chuyển sang sử dụng kháng sinh Amoxicillin-clavulanate hoặc Cephalosporin uống thế hệ thứ hai hoặc thứ ba, thậm chí phế cầu khuẩn kháng thuốc cao có thể cần điều trị bằng Ceftriaxone đường tiêm để đạt được nồng độ kháng sinh thích hợp trong huyết thanh.

Các bệnh nhân bị viêm xoang do phế cầu thường được sử dụng thuốc giống với gây bệnh viêm tai giữa. Ở những bệnh nhân bị dị ứng ở người lớn và ở những người lớn không đáp ứng với liệu pháp ban đầu, thuốc Fluoroquinolone có thể dùng để thay thế cho các loại thuốc trên. Tuy nhiên, trong tình huống lâm sàng này, nhóm kháng sinh này không được chấp thuận cho trẻ em.

4. Thuốc kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn huyết do phế cầu

Nhiễm trùng huyết do phế cầu khuẩn nằm trong số 10 tác nhân gây nhiễm trùng huyết phổ biến nhất, có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao trên toàn thế giới. Bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết do phế cầu khuẩn nên được điều trị bằng kháng sinh thích hợp và chăm sóc hỗ trợ. Luôn phải thực hiện cấy máu lặp lại ở những bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết do phế cầu khuẩn.

thuốc kháng sinh điều trị phế cầu khuẩn
Thuốc kháng sinh điều trị phế cầu khuẩn thường được chỉ định dùng phụ thuộc vào tình trạng bệnh.

Kháng thuốc và điều chỉnh

Kháng kháng sinh là kết quả trực tiếp của việc sử dụng kháng sinh. Tại Hoa Kỳ, ước tính tình trạng kháng kháng sinh là nguyên nhân gây ra hơn 2 triệu ca nhiễm trùng và 23.000 ca tử vong mỗi năm, với chi phí trực tiếp là 20 tỷ đô la và tổn thất năng suất làm việc khoảng 35 tỷ đô la. Dữ liệu từ Châu Âu cho thấy khoảng 25.000 ca tử vong là do nhiễm trùng kháng kháng sinh, với chi phí liên quan là 1,5 tỷ đô la mỗi năm.

Kháng kháng sinh ở phế cầu khuẩn là nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm phổi mắc phải trong cộng đồng (CAP), viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết và viêm tai giữa cho người bệnh. Đây cũng là nguyên nhân có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh, tử vong cao ở trẻ em nhiễm phế cầu khuẩn dưới 2 tuổi, đặc biệt là người suy giảm miễn dịch và người cao tuổi. Sự xuất hiện của phế cầu khuẩn kháng kháng sinh do lạm dụng kháng sinh đang là mối quan tâm hàng đầu trong hệ thống y tế.

Trong một báo cáo gần đây về tình trạng kháng kháng sinh toàn cầu do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố năm 2014, phế cầu được coi là một trong 9 loại vi khuẩn gây quan ngại quốc tế về tình trạng kháng thuốc kháng sinh . Tuy nhiên, với thực trạng sử dụng kháng sinh ngày càng tăng, sự phát tán của một số dòng kháng thuốc, khả năng phế cầu khuẩn thay thế huyết thanh và chuyển đổi nang, cũng như sự truyền gen kháng thuốc theo chiều ngang khiến mầm bệnh này rất khó kiểm soát.

Vi khuẩn phế cầu trải qua quá trình biến đổi gen và có thể lấy DNA từ các liên cầu khuẩn khác. trong quá trình mang vi khuẩn phế cầu ở mũi họng không có triệu chứng, quá trình chọn lọc vi khuẩn phế cầu kháng thuốc đặc biệt xảy ra ở trẻ em, vì đây là nhóm đối tượng mang vi khuẩn phế cầu thường xuyên và trong thời gian dài hơn, đồng thời cũng sử dụng các thuốc kháng sinh với tần suất cao. (4)

Vì việc tiêu thụ kháng sinh toàn cầu tăng cao góp phần vào sự xuất hiện của vi khuẩn kháng kháng sinh như phế cầu khuẩn. Theo đó, cần giảm thiểu sử dụng kháng sinh không cần thiết. Kháng sinh cần được kê đơn có kiểm soát sau khi có kết quả chẩn đoán cụ thể và vi sinh học. Việc sử dụng không đúng loại thuốc, không đúng liều lượng hoặc không đúng thời điểm sẽ đẩy nhanh sự phát triển của các chủng phế cầu kháng thuốc.

Việc sử dụng kháng sinh điều trị phế cầu cũng cần lựa chọn thích hợp dựa trên bằng chứng khoa học. Trong các trường hợp nhiễm phế cầu, nên sử dụng kháng sinh dựa trên hướng dẫn điều trị quốc gia hoặc bản đồ kháng sinh địa phương (antibiogram) để hạn chế nguy cơ chọn lọc các chủng vi khuẩn kháng thuốc.

Đồng thời, nhiều chuyên gia khuyến cáo sử dụng kháng sinh thế hệ mới như Oxazolidinone (Linezolid) hoặc các Cephalosporin thế hệ cao đã được phát triển để điều trị các chủng phế cầu kháng thuốc, tuy nhiên, cần sử dụng thận trọng để tránh lạm dụng, làm trầm trọng hóa tình trạng kháng kháng sinh của phế cầu khuẩn.

Bên cạnh đó, các nhà khoa học và chức trách y tế cũng cần tăng cường giám sát và nghiên cứu tình trạng nhạy cảm kháng sinh của phế cầu trong cộng đồng và bệnh viện. Điều này giúp phát hiện sớm các xu hướng kháng thuốc mới, từ đó điều chỉnh phác đồ điều trị phù hợp. Song song, cần đầu tư nghiên cứu và phát triển thêm các loại kháng sinh hiệu quả mới.

Một cách tiếp cận điều chỉnh khác, được khuyến cáo mạnh mẽ bởi các tổ chức và chuyên gia y tế hàng đầu là tiêm chủng vắc xin phòng ngừa phế cầu, nhằm ngăn ngừa nhiễm trùng phế cầu và giảm gánh nặng sử dụng kháng sinh. Hiện nay, tại Việt Nam đang lưu hành đa dạng các loại vắc xin phế cầu với hiệu quả và an toàn tối ưu, chỉ định cho cả trẻ em và người lớn, bao gồm:

Tên vắc xin Phòng bệnh Đối tượng Đăng ký tiêm
Synflorix (Bỉ) Phòng 10 chủng phế cầu khuẩn gồm 1, 4, 5, 6B, 7F, 9V, 14, 18C, 19F và 23F Trẻ từ tròn 6 tuần tuổi đến dưới 6 tuổi đăng ký tiêm
Prevenar 13 (Bỉ) Phòng 13 chủng phế cầu khuẩn gồm 1, 3, 4, 5, 6A, 6B, 7F, 9V, 14, 18C, 19A, 19F và 23F Trẻ từ tròn 6 tuần tuổi và người lớn đăng ký tiêm
Vaxuevance (Mỹ) Khả năng phòng 15 chủng phế cầu khuẩn xâm lấn bao gồm 1, 3, 4, 5, 6A, 6B, 7F,  9V, 14, 18C, 19A, 19F, 22F, 23F và 33F Trẻ từ tròn 6 tuần tuổi và người lớn Đang cập nhật
Pneumovax 23 (Mỹ) Phòng 23 chủng phế cầu khuẩn gồm 1, 2, 3, 4, 5, 6B, 7F, 8, 9N, 9V, 10A, 11A, 12F, 14, 15B, 17F, 18C, 19F, 19A, 20, 22F, 23F, 33F Trẻ từ 2 tuổi và người lớn đăng ký tiêm
tiêm chủng vắc xin phòng ngừa phế cầu
Tiêm chủng vắc xin phòng ngừa phế cầu, nhằm ngăn ngừa nhiễm trùng phế cầu và giảm gánh nặng sử dụng kháng sinh.

Ngoài ra, các chuyên gia y tế cũng khuyến cáo nâng cao nhận thức cộng đồng về việc sử dụng kháng sinh hợp lý, tuân thủ điều trị và vai trò của vệ sinh phòng bệnh là cần thiết để giảm thiểu áp lực sử dụng kháng sinh trong cộng đồng.

Thời gian điều trị khi dùng kháng sinh với bệnh phế cầu

Theo các chuyên gia y tế, kháng sinh thường được sử dụng trong thời gian ngắn  từ 3 đến 7 ngày hoặc có thể được dùng trong liệu trình dài từ 10 đến 14 ngày (5).  Thời gian điều trị của một số loại thuốc kháng sinh trong điều trị phế cầu có thể cho ra những hiệu quả như sau:

  • Amoxicillin được chỉ định dùng trong liệu trình ngắn (3 ngày) không khác biệt đáng kể so với Amoxicillin dùng trong liệu trình dài (8 ngày) về khả năng chữa khỏi lâm sàng, thành công về mặt vi khuẩn học hoặc hình ảnh học và thời gian nằm viện ở người lớn mắc bệnh viêm phổi mắc phải trong cộng đồng mức độ nhẹ đến trung bình;
  • Kháng sinh dùng trong thời gian ngắn (Amoxicillin hoặc co-Trimoxazole trong 3 ngày) không khác biệt đáng kể so với liệu trình 5 ngày dùng cùng loại kháng sinh để chữa khỏi lâm sàng hoặc tái phát ở trẻ nhỏ (từ 2 đến 59 tháng) mắc bệnh viêm phổi mắc phải trong cộng đồng không nghiêm trọng do phế cầu;

Lưu ý khi điều trị phế cầu bằng thuốc kháng sinh

Việc điều trị nhiễm khuẩn phế cầu bằng thuốc kháng sinh cần tuân thủ các lưu ý quan trọng để đảm bảo hiệu quả điều trị và ngăn ngừa nguy cơ kháng thuốc. Một số lưu ý khi sử dụng thuốc kháng sinh điều trị phế cầu bao gồm:

  • Xác định chính xác tác nhân gây bệnh: Trước khi sử dụng kháng sinh, cần tiến hành xét nghiệm như cấy vi khuẩn hoặc làm kháng sinh đồ để xác định chủng phế cầu gây bệnh và chọn loại kháng sinh phù hợp với độ nhạy của chúng;
  • Chọn kháng sinh theo chỉ định: Việc lựa chọn kháng sinh cần dựa trên kết quả xét nghiệm, tình trạng bệnh lý cụ thể, và khuyến cáo từ bác sĩ. Ưu tiên sử dụng kháng sinh phổ hẹp, chỉ tác động đến phế cầu khuẩn, để giảm nguy cơ tiêu diệt vi khuẩn có lợi trong cơ thể và hạn chế tình trạng kháng thuốc;
  • Đảm bảo đúng liều lượng và thời gian: Sử dụng kháng sinh đúng liều lượng, khoảng cách thời gian giữa các liều và liệu trình điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Việc ngừng thuốc sớm hoặc dùng không đủ liều có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc hoặc tái phát bệnh;
  • Theo dõi phản ứng của cơ thể: Trong quá trình điều trị, cần theo dõi sát sao tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Nếu các triệu chứng không cải thiện hoặc xuất hiện phản ứng phụ (như dị ứng, tiêu chảy nghiêm trọng), cần thông báo ngay cho bác sĩ để điều chỉnh liệu pháp kịp thời;
  • Tránh lạm dụng kháng sinh: Không tự ý dùng hoặc đổi thuốc kháng sinh mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ. Việc lạm dụng kháng sinh có thể làm tăng nguy cơ kháng thuốc, gây khó khăn trong điều trị sau này;
  • Kiểm soát môi trường và nguồn lây: Ngoài việc điều trị bằng kháng sinh, cần duy trì vệ sinh cá nhân, môi trường sống sạch sẽ và cách ly người bệnh để ngăn ngừa lây nhiễm cho người khác;
  • Chăm sóc toàn diện: Kết hợp việc sử dụng kháng sinh với các biện pháp hỗ trợ khác như uống đủ nước, nghỉ ngơi, và bổ sung dinh dưỡng để tăng cường sức đề kháng, giúp cơ thể hồi phục nhanh chóng.
sử dụng thuốc kháng sinh điều trị phế cầu
Khi sử dụng thuốc kháng sinh điều trị phế cầu, người bệnh tránh lạm dụng thuốc và cần áp dụng theo phác đồ của bác sĩ.

Thuốc kháng sinh điều trị phế cầu khuẩn là phương pháp nền tảng góp phần hỗ trợ hồi phục bệnh và hạn chế biến chứng do phế cầu khuẩn gây ra. Tuy nhiên, vi khuẩn phế cầu có khả năng đột biến gen và gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh dẫn đến tình trạng bệnh trở nên nguy hiểm tạo ra mối lo trong cộng đồng. Chính vì vậy, “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, tiêm vắc xin là phương pháp phòng bệnh hiện đại và mang lại hiệu quả tối ưu.

Chủ đề: #phế cầu
07:13 29/05/2025
Share Facebook Share Twitter Share Pinterest
Nguồn tham khảo
  1. UFO Themes. (2017, January 11). Principles of Antibiotic Use and the Selection of Empiric Therapy for Pneumonia. Thoracic Key. https://thoracickey.com/principles-of-antibiotic-use-and-the-selection-of-empiric-therapy-for-pneumonia/
  2. Treatment of pneumococcal pneumonia. (2018). Gpnotebook.com. https://gpnotebook.com/pages/ear-nose-and-throat/specific-treatments/treatment-of-pneumococcal-pneumonia
  3. Bush, L. M., & Vazquez-Pertejo, M. T. (2023, March 6). Pneumococcal Infections. MSD Manual Consumer Version; MSD Manuals. https://www.msdmanuals.com/home/infections/bacterial-infections-gram-positive-bacteria/pneumococcal-infections#Symptoms-and-Diagnosis_v38708149
  4. Catia Cillóniz, Garcia-Vidal, C., Ceccato, A., & Torres, A. (2018). Antimicrobial Resistance Among Streptococcus pneumoniae. Springer EBooks, 13–38. https://doi.org/10.1007/978-3-319-78538-7_2
  5. Summary of the evidence | Pneumonia (community-acquired): antimicrobial prescribing | Guidance | NICE. (2019, September 16). Nice.org.uk; NICE. https://www.nice.org.uk/guidance/ng138/chapter/summary-of-the-evidence

BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ