Mở cửa 7h30 - 17h00 / T2 - CN xuyên trưa *
Khi bị thủy đậu, hầu hết người bệnh đều hồi phục trong khoảng 2 tuần. Tuy nhiên, một số trường hợp có thể gặp các biến chứng thủy đậu nguy hiểm như viêm phổi, viêm não, viêm cầu thận cấp, nhiễm trùng da biến chứng nhiễm trùng huyết… nếu không theo dõi, tuân thủ điều trị đúng cách. Các đối tượng có hệ miễn dịch suy yếu như phụ nữ mang thai, thanh thiếu niên, người có bệnh lý nền, trẻ sơ sinh có thể gặp biến chứng rất cao.
BS Bùi Thanh Phong – Quản lý Y khoa vùng TP HCM, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC: “Biến chứng thủy đậu có thể để lại hậu quả nặng nề như viêm phổi, viêm não, nhiễm trùng huyết, đặc biệt là các đối tượng có hệ miễn dịch suy yếu, trẻ sơ sinh, phụ nữ mang thai. Cách an toàn và hiệu quả nhất để ngăn chặn thủy đậu biến chứng là tiêm vắc xin thủy đậu. 98% người đã tiêm chủng vắc xin sẽ có miễn dịch phòng tránh được bệnh này. Trẻ em chưa bao giờ mắc bệnh thủy đậu nên tiêm hai liều vắc xin, liều đầu tiên khi trẻ được 9 tháng đến 12 tháng tuổi và liều thứ 2 cách liều một 3 tháng. Những người trên 12 tuổi chưa bao giờ tiêm chủng nên tiêm hai liều vắc xin, mỗi liều cách nhau ít nhất một tháng”. |
Thủy đậu là bệnh nhiễm trùng phổ biến, do virus varicella zoster (VZV) gây ra, xảy ra ở người lớn và trẻ em. Dấu hiệu nhận biết đặc trưng của bệnh là phát ban, nổi mụn nước nhỏ chứa đầy dịch, gây ngứa. Trong vài ngày, các mụn nước sẽ vỡ ra và bắt đầu rỉ nước, sau đó đóng vảy trước khi lành lại. Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 10 đến 21 ngày sau khi tiếp xúc với người nhiễm virus.
Người tiếp xúc trực tiếp với vùng phát ban hoặc hít phải các giọt bắn chứa virus khi người bệnh ho, hắt hơi, chạm vào vật dụng nhiễm chất dịch ở nốt phỏng có thể mắc bệnh. Có đến 90% chưa có miễn dịch, chẳng hạn chưa tiêm phòng và chưa từng nhiễm thủy đậu sẽ mắc bệnh nếu tiếp xúc với virus thủy đậu.
Sau khi điều trị lui bệnh thủy đậu, virus varicella zoster vẫn còn tồn tại và trú ẩn trong các hạch thần kinh cảm giác, sau này tái hoạt động khi gặp điều kiện thuận lợi gây ra bệnh zona thần kinh, dân gian còn gọi là giời leo.
Biến chứng thủy đậu có thể xảy ra với bất kỳ đối tượng nào, do đó người mắc bệnh tuyệt đối không được chủ quan, cần theo dõi sát sao, tuân thủ hướng dẫn điều trị của bác sĩ.
Bệnh thường xảy ra ở trẻ em hơn nhưng người lớn vẫn có thể nhiễm bệnh và điều đáng lưu ý là người lớn mắc thủy đậu dễ bệnh nặng và có nguy cơ bị bội nhiễm hơn thủy đậu ở trẻ em. Trong thời kỳ chưa có vắc xin ở Mỹ, người lớn chỉ chiếm 5% số ca mắc nhưng lại chiếm tới 55% trong số khoảng 100 ca tử vong do thủy đậu mỗi năm. [1]
Biện pháp điều trị thủy đậu là chủ yếu giảm nhẹ các triệu chứng, phòng biến chứng thủy đậu nguy hiểm có thể xảy ra như nhiễm trùng da và mô mềm thứ phát, viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm gan, viêm khớp, viêm tủy xương, viêm các bộ phận của mắt, hội chứng sốc nhiễm độc, viêm gan, giảm tiểu cầu, mất điều hòa tiểu não, đột quỵ và viêm não…
Các đối tượng như trẻ sơ sinh, thanh thiếu niên, phụ nữ mang thai, người có bệnh nền, hệ miễn dịch suy yếu như mắc ung thư, nhiễm HIV, suy thận… nếu chẳng may mắc bệnh sẽ có tỷ lệ gặp biến chứng thủy đậu cao hơn người khỏe mạnh.
Hiện vắc xin thủy đậu thường được chủng ngừa cho trẻ từ 9 tháng tuổi, do đó giai đoạn từ khi trẻ sinh ra, nhất là trong một tháng đầu, trẻ có hệ miễn dịch non nớt nên nguy cơ nhiễm bệnh rất cao nếu tiếp xúc virus thủy đậu.
Trẻ sơ sinh có thể nhiễm thủy đậu khi có mẹ hoặc người thân chăm sóc mắc bệnh. Tỷ lệ lây truyền virus từ mẹ sang con rất cao nếu mẹ nhiễm thủy đậu 5 ngày trước sinh hoặc 2 ngày sau khi sinh.
Biến chứng thủy đậu ở trẻ sơ sinh rất nguy hiểm vì có thể gây tổn thương đa cơ quan, khiến trẻ tử vong cao. Trẻ cần được theo dõi điều trị tích cực để phòng biến chứng thủy đậu nguy hiểm, đe dọa tính mạng như suy hô hấp, bội nhiễm vi khuẩn, sốc nhiễm trùng nhiễm độc, viêm màng não, viêm tủy, viêm đa dây thần kinh, viêm dây thần kinh thị giác. Ngoài ra, trẻ có thể gặp các biến chứng khác như suy thượng thận, viêm cầu thận, tổn thương mắt.
Theo các nghiên cứu, thủy đậu biến chứng thường gặp ở đối tượng thanh thiếu niên và người lớn hơn. Mầm bệnh thủy đậu có nguy cơ lan truyền cao hơn ở những nơi đông người như bệnh viện, trường học, nhà trẻ… Thanh thiếu niên là đối tượng đang độ tuổi đi học, tiếp xúc gần gũi với môi trường tập thể như ở trường học, ký túc xá, nhà trọ, do đó khả năng nhiễm bệnh cũng cao hơn.
Có nghiên cứu cho thấy thủy đậu làm tăng nguy cơ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A xâm lấn nghiêm trọng ở trẻ khỏe mạnh trước đây lên gấp 40 đến 60 lần. Nguy cơ biến chứng như vậy tăng lên sau khi 15 tuổi và đặc biệt cao ở những người từ 20 tuổi trở lên.
Phụ nữ mang thai mắc thủy đậu có thể gây ra những biến chứng cực kỳ nguy hiểm cho bản thân mẹ bầu và thai nhi. Nếu thai phụ nhiễm virus thủy đậu trong 20 tuần đầu của thai kỳ, 1/50 em bé có khả năng mắc phải một loạt dị tật bẩm sinh gọi là hội chứng thủy đậu bẩm sinh như: sẹo trên da, khiếm khuyết về cơ và xương, biến dạng chân tay và bị liệt, kích thước đầu nhỏ, mù lòa, chậm phát triển trí tuệ.
Ở những bà mẹ bị phát ban từ 5 ngày trước đến 2 ngày sau khi sinh, cứ 10 trẻ sơ sinh thì có tới 3 trẻ bị nhiễm bệnh, tỷ lệ tử vong lên đến 30%. Nếu người mẹ bị phát ban từ 6 đến 21 ngày trước khi sinh, trẻ có nguy cơ bị nhiễm trùng nhẹ. [2]
Người mẹ cũng có thể gặp biến chứng thủy đậu, có thể gây nguy hiểm tính mạng và ảnh hưởng sức khỏe thai kỳ. Theo các nghiên cứu, biến chứng thủy đậu thường gặp với thai phụ là viêm phổi. Cứ 10 thai phụ bị thủy đậu thì có khoảng 1 người bị viêm phổi. Khoảng 1 trong 100 thai phụ bị viêm phổi do thủy đậu sẽ tử vong. Viêm phổi do thủy đậu có thể gây ra tình trạng thiếu oxy, buộc thai phụ mổ lấy thai. Ngoài ra, nhiễm trùng thủy đậu có thể khiến thai phụ sảy thai và chuyển dạ sớm.
Ở những người có hệ miễn dịch suy yếu như mắc ung thư, HIV, suy thận, suy tim, ghép tạng…, các tế bào bạch cầu, đặc biệt là các lympho T và B sẽ bị ảnh hưởng và hoạt động bất thường khiến cơ thể không sản sinh đủ các kháng thể tiêu diệt các mầm bệnh nên dễ dễ bị các loại virus, vi khuẩn tấn công hơn người bình thường.
Người suy giảm miễn dịch có nguy cơ gặp biến chứng thủy đậu khi virus tấn công vào các cơ quan nội tạng dẫn đến viêm phổi, viêm não, viêm gan và rối loạn đông máu rải rác trong lòng mạch, gây nguy hiểm tính mạng. Các nghiên cứu cho thấy người bệnh đang được điều trị ức chế miễn dịch bằng corticosteroid và hóa trị là yếu tố nguy cơ gây nhiễm trùng thủy đậu nặng. virus cũng có nguy cơ lây lan sang các cơ quan khác cao hơn ở những bệnh nhân đang tích cực điều trị bằng hóa trị.
Đối tượng này cũng có thể bị tái nhiễm và có tổn thương loét da, bị bệnh lâu khỏi hơn những người có hệ miễn dịch bình thường. Các tổn thương mới có thể tiếp tục phát triển hơn 7 ngày, gây xuất huyết cao hơn.
Biến chứng nhiễm trùng da do vi khuẩn khi mắc thủy đậu là nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ phải nhập viện. Các nốt mụn thủy đậu thường gây cảm giác ngứa ngáy, khó chịu khiến người bệnh đưa tay gãi trầy xước, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập. Dấu hiệu dễ nhận biết của biến chứng thủy đậu này là sốt dai dẳng, trên 38,5 độ trong vòng 3 ngày trở lên sau khi bắt đầu nhiễm thủy đậu. Các nốt mụn phát triển bất thường gây tổn thương diện tích da lớn, có thể bong tróc, sưng tấy, mưng mủ… [3]
Nếu các nốt thủy đậu bị nhiễm trùng không được xử lý kịp thời, người bệnh có thể bị sẹo lõm gây mất thẩm mỹ, đặc biệt là trên vùng mặt. Các nốt phồng rộp có thể mọc ở trong tai, gây viêm tai ngoài, viêm tai giữa. Nếu vị trí mọc trong họng hoặc niêm mạc miệng, các nốt mụn nhiễm trùng có thể gây biến chứng ảnh hưởng thanh âm, viêm họng, viêm thanh quản.
Viêm phổi là biến chứng thủy đậu gây tử vong hàng đầu cho bệnh nhân. Tỷ lệ viêm phổi ở người lớn khỏe mạnh mắc thủy đậu cao gấp 25 lần so với trẻ em.
Khoảng 5% đến 15% trường hợp mắc thủy đậu ở người trưởng thành sẽ có một loại biến chứng liên quan đến đường hô hấp.
Phụ nữ mang thai, người có tiền sử bệnh phổi hoặc hút thuốc khiến hệ thống miễn dịch bị tổn hại dễ bị biến chứng ảnh hưởng đến phổi hơn do thủy đậu.
Sự khởi phát các triệu chứng thường xảy ra trong vòng một tuần kể từ khi xuất hiện triệu chứng ban đầu của bệnh thủy đậu như khó thở, sốt, ho, đôi khi là ho ra máu, đau ngực.
Viêm phổi do thủy đậu có tỷ lệ suy hô hấp tương đối cao, vì vậy cần theo dõi, chẩn đoán và sử dụng các thuốc kháng virus và thuốc điều trị phù hợp.
Viêm não là biến chứng thủy đậu nguy hiểm, thường gặp nhiều hơn ở người lớn, gây tỷ lệ tử vong cao nếu không điều trị kịp thời. Biến chứng thủy đậu này thường xảy ra sau khi người bệnh nổi mụn nước một tuần. Khi có dấu hiệu viêm não, bệnh nhân thường sốt cao, rối loạn tri giác, hôn mê và xuất hiện tình trạng rung giật nhãn cầu. Theo báo cáo của Cơ quan dịch vụ y tế Anh (NHS), có từ 5-20% người bị viêm não do thủy đậu sẽ tử vong. Ngay cả khi được cứu sống, bệnh nhân vẫn có thể chịu những di chứng nặng nề hoặc phải sống đời thực vật.
Nhiều trường hợp viêm gan tối cấp, viêm gan tự miễn (AIH) – một dạng rối loạn tự miễn dịch, xảy ra khi các tế bào gan bị tấn công bởi hệ thống miễn dịch của cơ thể khiến gan bị viêm và tổn thương đã được báo cáo sau khi nhiễm virus varicella zoster.
Các nghiên cứu cho thấy các tác nhân nhiễm virus có thể kích hoạt quá trình tự gây tổn thương gan ở bệnh AIH, dẫn đến tăng nguy cơ tiến triển thành xơ hóa gan và xơ gan. Vì vậy, AIH được khuyến cáo xem xét ở các bệnh nhân có men gan thay đổi liên tục sau khi bị nhiễm virus gây bệnh thủy đậu. Tương tự, bệnh nhân mắc AIH nên được sàng lọc viêm gan siêu vi.
Bên cạnh đó, rối loạn chức năng gan cũng thường được báo cáo ở bệnh nhân sau khi mắc thủy đậu.
Xuất huyết là biến chứng thủy đậu hiếm gặp nhưng có thể gây tổn thương nghiêm trọng, cần theo dõi chặt chẽ. Biến chứng xuất huyết phổ biến hơn ở những người bị suy giảm miễn dịch và những bệnh nhân đang sử dụng thuốc ức chế miễn dịch.
Dấu hiệu xuất huyết có thể biểu hiện bằng việc bùng phát các mụn nước xuất huyết rất rộng trên da, hoặc gây bầm tím trên da gọi là phát ban xuất huyết. Tình trạng xuất huyết có thể diễn ra ở cơ quan tiêu hóa, phổi, biểu hiện là xuất huyết tiêu hóa, xuất huyết phổi ồ ạt khiến người bệnh tử vong do mất máu hoặc suy hô hấp.
Nhiễm trùng máu là biến chứng thủy đậu nguy hiểm, xảy ra khi vi khuẩn tử các nốt phỏng thủy đậu bị nhiễm trùng xâm nhập vào máu. Vi khuẩn gây nhiễm trùng máu thường gặp là liên cầu khuẩn hoặc tụ cầu khuẩn. Nhiễm trùng huyết có thể gây tổn thương mô, suy nội tạng và tử vong nhanh chóng cho người bệnh.
Bất cứ ai cũng có thể bị biến chứng nhiễm trùng huyết, nhưng một số người có nguy cơ nhiễm trùng huyết cao hơn là người từ 65 tuổi trở lên, người có hệ miễn dịch suy yếu, mắc các bệnh lý mạn tính như viêm phổi, ung thư, tiểu đường và bệnh thận.
Là dạng bệnh lý não cấp tính và gan nhiễm mỡ hiếm gặp, hội chứng Reye chủ yếu chỉ xảy ra ở trẻ em dưới 18 tuổi. Hội chứng hiếm gặp này được nghiên cứu có xu hướng xảy ra sau một số bệnh nhiễm virus, đặc biệt là bệnh thủy đậu hoặc cúm A hoặc B, và đặc biệt là khi sử dụng salicylat – thuốc dùng điều trị viêm khớp.
Hội chứng Reye có thể gây sưng tấy trong gan và não, kèm theo các triệu chứng khác như co giật, lú lẫn, mất ý thức cần can thiệp y tế khẩn cấp.
Aspirin là loại thuốc được cho có liên quan với hội chứng Reye, các đối tượng thanh thiếu niên và trẻ em đang phục hồi sau khi nhiễm thủy đậu hoặc có các triệu chứng giống cúm được lưu ý không nên dùng.
Zona thần kinh là biến chứng thủy đậu ở người lớn phổ biến. Nguyên nhân là sau khi chữa khỏi bệnh, virus varicella zoster gây bệnh thủy đậu không đào thải hoàn toàn khỏi cơ thể mà âm thầm trú ẩn trong các hạch thần kinh. Khi gặp các yếu tố thuận lợi như người bệnh tuổi cao, suy nhược cơ thể, suy giảm sức đề kháng…, siêu vi sẽ tái hoạt động sau nhiều năm gây ra bệnh zona thần kinh, hay dân gian gọi là giời leo.
Người mắc zona thần kinh gặp nhiều bất tiện trong sinh hoạt và cột sống vì các nốt mụn nước gây ra các cơn đau dữ dội, lan dọc theo dây thần kinh. Ngay cả khi các mụn nước và phát ban đã lặn, người bệnh vẫn còn chịu đựng các cơn đau kéo dài gọi là đau dây thần kinh sau zona. Theo thống kê của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát dịch bệnh (CDC) Mỹ thống kê có đến 10% – 18% người mắc biến chứng đau dây thần kinh sau zona.
Ngoài ra, zona thần kinh có thể làm viêm các dây thần kinh vận động, gây suy yếu các cơ xung quanh vùng da phát ban với tỷ lệ khoảng 1-5%. Bệnh zona cũng có thể ảnh hưởng đến dây thần kinh đầu với các biểu hiện khô mắt, đau tai, ù tai, liệt một bên mặt… Zona xuất hiện ở các vị trí như mắt có thể gây loét giác mạc, ảnh hưởng thị lực, mù lòa.
⇒ Bạn có thể tìm hiểu kỹ hơn về bệnh này tại bài viết: Bệnh zona thần kinh là gì? Nguyên nhân và triệu chứng.
Người mắc thủy đậu có thể theo dõi và điều trị tại nhà, tuy nhiên cần theo dõi kỹ các dấu hiệu để phát hiện thủy đậu biến chứng, xử lý kịp thời sau đây:
Bệnh thủy đậu có thể theo dõi, điều trị tại nhà, điều lưu ý quan trọng là sớm phát hiện các dấu hiệu biến chứng thủy đậu kịp thời.
Người mắc bệnh thủy đậu nên ở phòng riêng và cách ly với các thành viên trong gia đình đồng thời tránh tiếp xúc với những người xung quanh.
Người mắc bệnh thủy đậu cần thông báo cho trường học, nơi làm và nghỉ học, nghỉ làm từ 7 đến 10 ngày từ khi bắt đầu phát hiện bệnh để tránh lây lan.
Hy vọng bài viết đã góp phần giải đáp cặn kẽ các thắc mắc biến chứng thủy đậu có thể xảy ra sau khi mắc bệnh thủy đậu. Biến chứng thủy đậu để lại hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, nếu không được chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và đúng cách, người bệnh đối diện nhiều nguy cơ ảnh hưởng tâm lý, sức khỏe vận động và tâm thần.
Người bệnh cần theo dõi các dấu hiệu cảnh báo nguy cơ biến chứng thủy đậu để thăm khám bác sĩ kịp thời. Để phòng ngừa nguy cơ mắc bệnh và có cuộc sống chất lượng, mỗi người nên chủ động phòng ngừa bằng việc tiêm vắc xin cho chính mình và người thân.
Vắc xin phòng thủy đậu mang lại hiệu quả phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm của virus Varicella-Zoster gây bệnh thủy đậu lên đến trên 98%. Vậy...
Xem ThêmBiểu hiện của bệnh lý nhiễm trùng ngoài da gây ra bởi zona thần kinh và kiến ba khoang có nhiều sự tương đồng, nếu không biết...
Xem ThêmVắc xin thủy đậu đã được chứng minh giúp cơ thể sinh kháng thể hiệu quả để phòng bệnh và các biến chứng nguy hiểm của thủy...
Xem ThêmZona thần kinh là bệnh lý nhiễm trùng ngoài da, các triệu chứng lâm sàng điển hình khá tương đồng với những nốt mụn viêm, mụn mủ...
Xem ThêmBệnh zona thần kinh là bệnh do virus varicella zoster gây ra, gây ra các triệu chứng như phát ban, ngứa, đau nhức và sốt ở các...
Xem ThêmVừa qua, tiến tới mục tiêu không còn ai phải chết vì bệnh dại, tỉnh Bình Dương phấn đấu tổ chức tiêm vắc xin cho đàn chó,...
Xem Thêm